Entry này được viết ra chỉ vì câu
bình luận sau đây trên báo Người
lao động: “Trong nghiên cứu khoa học, ai cũng biết một luật bất thành văn
là luận án TS không thể nào trích dẫn, tham khảo tài liệu ở những công trình có
học vị thấp hơn.” Thật ra, không có qui định nào như thế cả. Khoa học là bình đẳng.
Vấn đề đạo văn ở Việt Nam là vấn
đề thời sự. Tháng 10 năm ngoái xảy ra một vụ tai tiếng về một nhóm tác giả
với 3 bài báo khoa học bị rút lại sau khi đã công bố trên một tập san quốc tế.
Trước đó, cũng xảy ra nhiều vụ tai tiếng chỉ giới hạn trong nước, và theo thời
gian chìm vào quên lãng. Nhưng mới đây báo Người
lao động nêu vấn đề đạo văn qua vài trường hợp cụ thể. Những trường
hợp được nêu có lẽ chỉ là bề nổi của một tảng băng chìm. Nạn đạo văn ở nước
nào cũng khá phổ biến, nhưng ở nước ta cường độ thì có lẽ cao hơn nhiều so với
các nước khác. Vấn đề là chúng ta cần phải tìm hiểu nguyên nhân và “yếu tố
nguy cơ” để có biện pháp giảm tình trạng đạo văn.
Khi nào cần trích dẫn ?
Một trong những nguyên nhân của đạo
văn là không biết trích dẫn. Kinh nghiệm của tôi cho thấy nhiều học sinh,
sinh viên, nghiên cứu sinh, thậm chí … giáo sư chưa quen với phương pháp trích
dẫn. Điển hình cho hiểu lầm về trích dẫn là phát biểu sau đây mà bài báo
trên Người
lao động trích nguyên văn: “Nguyên tắc nghiên cứu khoa học, khi đã sử
dụng dù chỉ một từ vẫn phải có trích dẫn chữ dùng của ai.” Tôi e rằng người
phát biểu câu này nói hơi … quá lời. Thật ra, không có nguyên tắc nào đòi
hỏi người ta phải trích dẫn nếu sử dụng chỉ 1 từ cả, ngoại trừ đó là một thuật
ngữ đặc biệt chưa được nhiều người biết đến. Tuy nhiên, có qui ước: khi
dùng hay sao chép hơn 3 hay 4 từ liên tục từ một nguồn thì
cần phải để trong ngoặc kép hoặc đề nguồn.
Một hiểu lầm khác cũng xuất hiện,
khi có ý kiến rằng “Trong nghiên cứu khoa học, ai cũng biết một luật bất thành
văn là luận án TS không thể nào trích dẫn, tham khảo tài liệu ở những công
trình có học vị thấp hơn. Một luận án TS mà dựa trên nghiên cứu, quan điểm của
sinh viên thì khó chấp nhận.” Tôi có thể khẳng định rằng không có qui định
thành văn hay bất thành văn nào như thế cả. Rất nhiều tập san khoa học quốc
tế không cho phép tác giả đề học vị và chức danh. Do đó, một công trình
nghiên cứu trên tập san khoa học như thế, làm sao chúng ta biết tác giả đó có bằng
cử nhân hay tiến sĩ? Thật ra, khoa học rất bình đẳng trong tri thức, và
trích dẫn trong khoa học không phân biệt đẳng cấp và học vị của tác giả của nguồn
thông tin.
Vậy câu hỏi đặt ra là khi nào thì
cần phải trích dẫn? Theo qui định chung, tác giả cần phải trích dẫn và
cung cấp tài liệu tham khảo khi:
Lấy nguyên văn một câu hay đoạn
văn. Đây là nguyên tắc mà có lẽ ai cũng biết. Ví dụ:
A WHO Expert Consultation states
that “overweight (≥ 25 kg/m2) corresponded to 31-39%”(WHO Expert Consutation,
2004).
thì câu viết nghiêng là nguyên
văn của bản báo cáo, và thông tin trong ngoặc kép là nguồn báo cáo, thường là
tác giả và năm công bố.
Tóm lược và diễn đạt lại ý của
tác giả gốc. Trong khoa học thực nghiệm, ít khi nào nhà khoa học chịu lấy
nguyên văn của tác giả khác (vốn rất phổ biến trong khoa học xã hội), mà chỉ viết
lại ý chính của tác giả trước, ví dụ như:
Low bone mineral density is a robust
risk factor for fragility fracture (Nguyen et al, 1997)
Trong câu trên, câu Low bone
mineral density is a robust risk factor for fragility fracture là câu
văn của tác giả bài báo tóm lược ý chính trong bài báo của Nguyen và đồng
nghiệp công bố vào năm 1997.
Trích những dữ liệu thống kê.
Vì con số thống kê là trái tim, là linh hồn của một bài báo khoa học, nên
nếu tác giả trích con số của người khác thì phải cung cấp nguồn rõ ràng.
The prevalence of osteoporosis in
Asian women aged 50 years and above ranged between 17% and 30% [1]
Ngay cả những con số đơn giản
cũng phải đề nguồn:
Recent statistics indicated that
during 1997-2004 there were ~48,500 cases of TB (or 70 per 100,000 population),
and the incidence increased by around 0.2% per year, which occurred mainly in
rural areas [3]
Trong cả hai ví dụ trên [1] và
[3] là số của tài liệu tham khảo được liệt kê trong phần tài liệu tham khảo.
In lại những biểu đồ, hình ảnh.
Bất cứ hình hay biểu đồ nào được in lại trong sách, hay trong một bài báo khoa
học, hay trong một slide mà không phải của tác giả thì bắt buộc phải đề nguồn.
Trình bày những diễn giải mang
tính tranh cãi. Một dữ liệu hay kết quả có thể được hiểu và diễn giải bằng
nhiều cách khác nhau, vì người diễn giải dựa vào lăng kính khác. Do đó,
những diễn giải dữ liệu vẫn còn trong vòng tranh cãi cũng cần phải được trích dẫn
và ghi nguồn. Ví dụ:
The relationship between animal
protein and bone health has been controversial. It has long been
hypothesized, but remained to be confirmed, that a high animal protein diet
exerts a negative effect on bone health, because it generates a high endogenous
acid load that would require buffering from bone, thus increasing bone
resorption [10]
Trình bày kết quả nghiên cứu của
người khác. Trong bài báo khoa học, có khi tác giả cần phải so sánh với kết quả
của đồng nghiệp, và trong trường hợp này thì phải cung cấp tài liệu tham khảo.
Ví dụ:
The present result is consistent
with a previous observation that each standard deviation decrease in BMD was
associated with a 1.45-fold increase in the risk of osteoporotic fracture
(Kanis, et al, 2005)
Khi nào không cần trích
dẫn ?
Ai cũng biết rằng bất cứ tác giả
đề cập đến thông tin từ ngoài thì tác giả phải trích dẫn nguồn thông tin.
Nhưng cũng có trường hợp tác giả không cần phải đề nguồn. Có hai trường hợp
chính:
Lí luận, ý tưởng hay thông tin của
chính tác giả. Trường hợp này quá hiển nhiên. Nếu là phát kiến của chính
tác giả thì không cần trích dẫn.
Thông tin là một “common
knowledge”, tức hiểu theo nghĩa “nhiều người biết”. Những thông tin được
xem là kiến thức phổ quát thì không cần trích dẫn. Nhưng xác định thế nào
là kiến thức phổ quát có khi không dễ dàng chút nào, bởi vì đường ranh giữa kiến
thức phổ quát và kiến thức cần trích dẫn, mà ngay cả các chuyên gia về đạo văn
cũng không đồng ý với nhau. Chẳng hạn như nếu tôi viết Smoking is a
cause of lung cancer thì có lẽ ai cũng đồng ý là common knowledge, nhưng vẫn
có người trong khoa học đòi hỏi câu đó phải được trích dẫn nguồn.
Mặc dù không có tiêu chí cụ thể
thế nào là kiến thức phổ quát, nhưng có 2 tiêu chí thường được sử dụng thường
xuyên là: lượng thông tin và sự phổ biến. Trước hết là lượng thông
tin. Nhiều chuyên gia cho rằng một thông tin được xem là phổ quát nếu
thông tin đó có thể tìm thấy từ 5 nguồn độc lập. Kế đến là tiêu chí về phổ
biến liên quan đến thông tin đó đã được nhiều người trong chuyên ngành biết hay
chấp nhận. Ví dụ câu
Many countries require that food
labels announce genetically modified ingredients
được xem là common knowledge, và
tác giả không cần trích dẫn.
Tương tự, Smoking is a cause
of lung cancer có thể không cần trích dẫn, nhưng nếu viết cigarette smoking
is associated with a three-fold increase in the risk of lung cancer thì cần
phải trích dẫn, bởi vì có đề cập đến con số ở đây. Tương tự, nếu câu
Previous research has shown that
the slower kinetics observed during transitions from an elevated baseline
metabolic rate were related to a slower adjustment of cardiac output and hence
muscle O2 delivery
cũng cần trích dẫn, bởi có chữ research.
Bất cứ lúc nào có chữ research hay study, hay bàn về nghiên cứu
của người khác, cần phải trích dẫn nguồn.
Nhận dạng đạo văn
Cần phân biệt trích dẫn và đạo
văn. Đạo văn được Hội giáo sư đại học Mĩ (American Association of
University Professors) định nghĩa là lấy ý tưởng, phương pháp, hay chữ của người
khác làm của mình, mà không ghi nhận nguồn gốc và tác giả. Còn trích dẫn
dưới hình thức viết lại ý của tác giả gốc là một hình thức diễn tả lại ý tưởng
chính của đoạn văn gốc bằng một đoạn văn rất cô đọng và rất chung chung, mà
không hẳn dùng lại những chữ của tác giả gốc. Tuy nhiên, nếu không cẩn thận
thì trích dẫn, cho dù có đề nguồn, vẫn có thể bị phạm tội đạo văn. Chúng
ta thử so sánh hai câu văn sau đây, bên trái là bản gốc, và bên phải là bản viết
lại theo cách diễn giải và có trích dẫn. Câu hỏi là tác giả có phạm tội đạo
văn hay không?
Bản gốc:
There's a new class of worker out there: Nearly Autonomous, Not in the Office, doing Business in their Own Time Staff. Or nanobots, for short. Empowered by their mobile devices and remote access to the corporate network, nanobots put in long hours, sometimes seven days a week -- just not at their desks. Different from mobile workers, who usually stay in close contact with managers, nanobots thrive on their driven natures and on the personal freedom with which they are entrusted. Found at many levels of an organization, from sales managers to senior executives, they are self-starting high achievers who produce strong results with a minimum of supervision. Allowed to find their own equilibrium between work and private lives, they tend to put work first. |
Diễn giải 1:
Did you know there’s a new
class of worker out there? Nearly Autonomous, Not in the Office, doing
Business in their Own Time Staff—or, more simply, nanobots (Pauleen and
Harmer, 2008). Empowered by their mobile devices and remote access to the company
network, nanobots put in long hours, sometimes seven days a week -- just not
at their desks. Unlike mobile workers, who usually stay in close contact with
managers, “nanobots thrive on their driven natures and on the personal
freedom with which they are entrusted,” (2008, par.2). Interestingly, they
are high achievers who are self-motivated and produce good results with
little supervision. They are found at many levels of an organization, from
sales managers to senior executives. Allowed to find their own balance
between work and personal lives, they usually put work first (2008).
|
Pauleen, D. & Harmer, B.
(2008, Dec. 15). Away from the desk...always. Wall Street Journal Digital
Network. Retrieved Dec. 22, 2008, from http://online.wsj.com/article/SB122911032462702387.html
|
Theo các chuyên gia, tác giả phạm
tội đạo văn, vì gây ấn tượng cho người đọc rằng bản văn gốc đã được diễn giải lại,
nhưng trong thực tế đã lấy nhiều câu văn của bản gốc. Những đoạn gạch
đích dưới đây là những đoạn tác giả mượn văn của bài gốc:
Did you know there’s a new
class of worker out there? Nearly Autonomous, Not in the Office, doing
Business in their Own Time Staff—or, more simply, nanobots (Pauleen and
Harmer, 2008).Empowered by their mobile devices and remote access to the company network,
nanobots put in long hours, sometimes seven days a week -- just not at their
desks. Unlike mobile workers, who usually stay in close contact
with managers, “nanobots thrive on their driven natures and on the
personal freedom with which they are entrusted,” (2008, par.2).
Interestingly, they are high achievers who are self-motivated and
produce good results with little supervision, They are found
at many levels of an organization, from sales managers to senior executives.
Allowed to find their own balance between work and personal lives,
they usually put work first (2008).
|
Có một qui ước chung là khi tác
giả sử dụng một loạt 3 câu văn liền của bản gốc mà không để trong ngoặc
kép là có thể mang tội đạo văn.
Ví dụ trên cho thầy để tránh đạo
văn, tác giả cần phải luyện kĩ năng để tự diễn giải thông tin gốc. Có 3
cách để diễn giải thông tin hay câu văn gốc: thay đổi cấu trúc câu văn, dùng những
từ đồng nghĩa, và thay đổi dạng của câu văn. Sau đây là vài ví dụ:
Thay đổi cấu trúc câu văn. Đây
là cách diễn giải tốt nhất để tránh đạo văn. Tác giả cần phải đọc đoạn
văn gốc vài lần cho đến khi hiểu được ý nghĩa, rồi sau đó viết lại bằng chữ của
mình. Ví dụ:
Bản gốc của Mueller and Hancock
(2001):
Instead of analyzing data with
an exploratory factor analysis (where each item is free to load on each
factor) and potentially facing a solution inconsistent with initial theory, a
CFA can give the investigator valuable information regarding the fit of the
data to the specific, theory-derived measurement model (where items load only
on the factors they were designed to measure), and point to the potential
weakness of specific items.
|
Viết lại:
If the focus of the
investigation is the connection between data and the theoretical model being
used for measuement, a CFA is a better choice than an exploratory factor
analysis, as the CFA is more likely to provide results that show the
connection between data and theory (Mueller and Hancock, 2001)
|
Dùng từ đồng nghĩa. Cũng có khi
câu văn ngắn nên viết lại cũng khó khăn. Trong trường hợp này, có thể
thay thế những từ đồng nghĩa. Ví dụ:
Bản gốc của Johnson et al
(2008):
Optimizing peak bone mass
during the early years is thought to be a key factor in preventing
osteoporosis later in life.
|
Viết lại:
To prevent osteoporosis,
experts believe it is important to build bone mass before adulthood (Johnson
et al., 2008).
|
Thay đổi cách dạng của câu văn. Thông
thường một câu văn ngắn có thể thay thế bằng cách đổi từ văn thụ động sang chủ
động (hay ngược lại) và thay đổi từ. Chẳng hạn như:
Earth-friendly products are
being purchased more often by consumers
|
Increasing, shoppers are
choosing to buy environmentally safe products
|
Trích dẫn và diễn giải là hai
hình thức rất phổ biến trong văn chương khoa học để tránh đạo văn. Trích
dẫn có lẽ không khó, nhưng diễn giải thì khó hơn vì đòi hỏi tác giả phải am hiểu
ngữ vựng tiếng Anh, hiểu ý nghĩa câu văn gốc, và có kĩ năng cách một cách trôi
chảy. Ở đây, tôi thấy cần phải nhắc lại hai điểm mà tôi đã đề cập trong
phần đầu để tránh ngộ nhận: không ai đòi hỏi phải trích dẫn nếu chỉ dùng một từ
của bản văn gốc, và không có qui định nào nói rằng chỉ trích dẫn những tác giả
có học vị cao hơn mình. Khoa học là một hoạt động bình đẳng. Người
có công phát kiến, bất kể có văn bằng gì, sẽ được ghi nhận qua trích dẫn và
tham khảo một cách hợp lí. Đó chính là một nét văn hóa khoa học chẳng xa
lạ gì với người Việt chúng ta: nói có sách, mách có chứng.
NVT
Nguồn:
0 Comments:
Bài đăng Mới hơn Bài đăng Cũ hơn Trang chủ
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)