Gần đây, tôi nhận được khá nhiều
thư hỏi về những bài tôi viết về kĩ năng mềm cho giới làm nghiên cứu y khoa. Những
bài này được soạn theo kiểu “chỉ dẫn”, được công bố rải rác trên các tạp chí
trong nước và một số website. Bây giờ tìm lại cũng khó, vì tôi không giữ các
bài viết đó một cách có hệ thống. Nay tôi sẽ dần dần gom về đây bằng những đường
dẫn (link) để các bạn có thể tự tải về mà không cần viết thư hỏi tôi.
Nguồn:
1. “Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
Hồi cuối năm 2008, trong một chuyến
đi nói chuyện ở VN, tôi có dịp ra Hà Nội nói chuyện ở Viện lão khoa về đề tài
viết bài báo khoa học. Phạm Hiệp là người phụ trách bản tin của Trường Đại học
Quốc gia Hà Nội có nhã ý phỏng vấn tôi những chuyện chung quanh chủ đề này. Hôm
đó, chúng tôi (Hiệp, NĐP bên Tia Sáng, và tôi) gặp nhau trong một quán cà phê
nhỏ, mà NĐP và PH nói quán này là "quán tủ" của tụi sinh viên, và chắc
chính vì thế mà cách thiết trí của quán cũng có tính văn hóa. Quán chỉ cách
khách sạn Melia (nơi tôi ở) có vài bước đi bộ. Chúng tôi ngồi đó gần cả buổi
sáng chỉ nói chuyện ... thế sự khoa học. Một kỉ niệm khó quên. Thật ra, tôi thấy
Hà Nội cũng có cái nét quyến rũ của nó, nhưng còn vụ ăn uống thì chắc tôi cần
phải có thời gian mới thích nghi được. Mà thôi, tôi lan man mất rồi. Mời các bạn
theo dõi cuộc nói chuyện giữa chúng tôi ...
===
Kỹ năng mềm là khái niệm còn rất
mới mẻ đối với giới khoa học Việt Nam. Nhà khoa học sẽ “chuyên nghiệp” và
“thành công” hơn khi họ được trang bị kỹ năng này. Để hiểu rõ hơn về khia niệm
này, Bản tin ĐHQGHN đã có cuộc trao đổi với GS. Nguyễn Văn Tuấn - Nghiên cứu
viên cao cấp Viện Nghiên cứu Y khoa Garvan (Úc).
Trong tháng 12 vừa qua, ông có
tham gia dạy một số khóa học liên quan đến các kĩ năng trình bày, viết báo
cáo... cho các bác sỹ, dược sỹ tại Hà Nội. Ông có thể nói rõ hơn về khóa học
này ?
Thật ra, đó chỉ là những buổi
seminar về cách viết và công bố một bài báo khoa học trên các tập san y học quốc
tế, và cách trình bày một nghiên cứu khoa học trong các diễn đàn khoa học quốc
tế. Những chủ đề này nằm trong một loạt bài tôi đã viết từ trên chục năm qua,
và nay có dịp trình bày trước các đồng nghiệp trong nước.
Trong bài nói chuyện về cách viết
bài báo khoa học, tôi nói về qui trình vận hành của một tập san khoa học, đằng
sau quyết định đăng hay không một công trình nghiên cứu, cách cấu trúc một bài
báo khoa học và trình bày dữ liệu như biểu đồ và số liệu sao cho thuyết phục,
logic, và sau cùng là cách viết cũng như dùng chữ cho chính xác và hay.
Trong bài nói chuyện về cách
trình bày một nghiên cứu khoa học, tôi nói về những nguyên tắc cơ bản trong việc
chuyển giao thông tin khoa học đến người nghe một cách hữu hiệu, những nguyên tắc
về việc chọn màu sắc sao cho thích hợp với từng loại diễn đàn, cách chọn chữ và
thiết kế biểu đồ cũng như bảng số liệu sao cho gọn nhẹ nhưng nói lên được thông
điệp mình muốn chuyển giao đến người nghe.
Nói tóm lại tôi chỉ nói về những
kĩ năng cơ bản của một nhà khoa học. Vì có cơ duyên phục vụ trong ban biên tập
của nhiều tập san khoa học trên thế giới, nên tôi hiểu được cách vận hành và
làm việc của các tập san này, vì thế tôi có thể trình bày những vấn đề mà người
nước ngoài họ không thể chia sẻ với các đồng nghiệp trong nước.
Ðằng sau quyết định đăng một bài
báo bao gồm những gì?
Khi bản thảo bài báo khoa học được
nộp cho một tập san, tổng biên tập (editor-in-chief) đọc qua phần tóm lược
(abstract), và dựa vào chuyên ngành của bài báo, sẽ giao cho một phó biên tập
(associate editor) phụ trách, và người này chính là người có thẩm quyền quyết định
“số phận” của bài báo. Thông thường, phó biên tập đọc qua bài báo, rồi quyết định
xem có xứng đáng để gửi đi phản biện (peer review). Nếu bài báo có tiềm năng và
xứng đáng, phó biên tập sẽ chọn 2 - 3 chuyên gia phản biện (phần lớn những
chuyên gia này nằm trong ban biên tập của tập san). Sau 4 tuần (thời gian trung
bình), các chuyên gia này gửi báo cáo phản biện cho phó biên tập. Nếu có một
chuyên gia bình duyệt đề nghị từ chối bài báo thì thông thường phó biên tập sẽ
gửi thư cho tác giả biết rằng tập san từ chối công bố bài báo.
Nếu tất cả chuyên gia phản biện
không từ chối và yêu cầu sửa đổi, thì phó biên tập sẽ chuyển các phản biện này
cho tác giả để chỉnh sửa (kể cả làm thêm thí nghiệm, thêm phân tích…). Sau khi
chỉnh sửa, tác giả gửi lại bản thảo mới (và kèm theo những trả lời cho các câu
hỏi mà chuyên gia phản biện nêu) cho phó biên tập. Nếu phó biên tập thấy tác giả
trả lời đầy đủ, thì sẽ quyết định đăng hay không đăng. Nếu phó biên tập thấy
tác giả chưa trả lời đầy đủ, thì tất cả hồ sơ sẽ chuyển cho các chuyên gia phản
biện một lần nữa, và chu trình bình duyệt lại bắt đầu. Thông thường, một bài
báo phải qua 2 - 3 lần phản biện, nhưng cũng có trường hợp mà tác giả phải kinh
qua 6 lần phản biện. Một khi bài báo đã được chấp nhận hay không chấp nhận cho
công bố, phó biên tập sẽ thông báo quyết định của mình cho tổng biên tập biết.
Tính trung bình, thời gian từ lúc nộp bài đến khi quyết định cho công bố tốn
khoảng 6 tháng. Nhưng cũng có khi thời gian kéo dài cả 1 hay 2 năm. Cố nhiên,
trong các trường hợp bài báo được đánh giá là không xứng đáng ngay thì lúc ban
đầu thì thời gian đi đến quyết định chỉ trong vòng 1 tuần.
Như vậy nhà khoa học ngoài khả
năng chuyên môn cần phải có những kiến thức và kĩ năng nào khác?
Bạn đang nói đến kĩ năng mềm phải
không? Theo tôi thì có 2 kĩ năng mềm mà các nhà khoa học Việt Nam cần phải cải
tiến và học hỏi, đó là: Kĩ năng thông tin và ngoại giao. Kĩ năng thông tin ở
đây là khả năng truyền đạt thông tin khoa học đến đồng nghiệp trong và ngoài nước
qua viết và nói chuyện. Viết trên các tập san khoa học quốc tế đòi hỏi những kĩ
năng về tiếng Anh (vì phần lớn tập san khoa học ngày nay sử dụng tiếng Anh) và
cách biện luận, mà các đồng nghiệp trong nước đều rất yếu. Ðiều này thì có thể
hiểu được vì tiếng Anh không phải là tiếng mẹ đẻ và theo kinh nghiệm của tôi,
ngay cả những người đã từng đi du học ở các nước nói tiếng Anh cũng chưa thể viết
hoàn chỉnh một bài báo khoa học vì làm được việc này đòi hỏi một thời gian “cọ
sát” khá lâu mới trở thành chuyên nghiệp được. Ngay cả những nghiên cứu sinh mà
tiếng Anh là tiếng mẹ đẻ cũng khó có thể viết một bài báo khoa học một cách chỉn
chu.
Nói chuyện trong các hội nghị
khoa học đòi hỏi những kĩ năng chẳng những về ngôn ngữ mà còn nghệ thuật. Tôi
đã thấy nhiều đồng nghiệp trong nước nói chuyện trong các hội nghị khoa học quốc
tế, và họ phạm phải những lỗi lầm hết sức cơ bản như chọn màu sắc không thích hợp,
chọn font chữ sai, sử dụng quá nhiều hoạt hình màu mè, diễn giải không thông và
logic, cách nói quá đơn điệu, không biết cách trả lời người chất vấn, v.v.… Có
người nhầm lẫn giữa trả lời chất vấn và lên lớp, nên biến bài nói chuyện thành
một buổi trao đổi thiếu tính chuyên nghiệp (nếu không muốn nói là khôi hài)!
Cộng đồng khoa học, cũng như xã hội,
là một tập thể với những quan hệ đa chiều. Nhà khoa học phải phụ thuộc lẫn nhau
để tồn tại và phát triển. Trong mối quan hệ đa chiều như thế, kĩ năng ngoại
giao rất quan trọng trong việc quảng bá công trình nghiên cứu của mình.
Có nhiều nhà khoa học trong nước
nghĩ rằng họ công bố kết quả nghiên cứu và thế là xong. Nhưng khoa học ngày nay
cạnh tranh ác liệt, cạnh tranh để được ghi nhận. Trong bất cứ lĩnh vực nghiên cứu
nào cũng có nhiều người cùng làm, và việc tương tác với đồng nghiệp để quảng bá
nghiên cứu của mình là một kĩ năng rất cần thiết để thành đạt trong khoa học
ngày nay. Tôi thấy đây cũng là một điểm yếu nhất của nhiều đồng nghiệp trong nước
vì họ hầu như chẳng có ý niệm gì về lobby trong khoa học.
Lobby trong khoa học là một khái
niệm còn khá mới mẻ đối với giới khoa học Việt Nam. Ông có thể nói rõ hơn?
Nói ra ý này tôi cũng nghĩ làm
nhiều đồng nghiệp ngạc nhiên, vì ít ai nghĩ rằng trong hoạt động khoa học mà
cũng có lobby và vận động. Chúng ta có câu "hữu xạ tự nhiên hương", với
hàm ý nói nếu công trình nghiên cứu của mình tốt thì đồng nghiệp sẽ trích dẫn
và ghi nhận. Nhưng rất tiếc là ngày nay lí tưởng đó khó tồn tại trong thực tế khoa
học, ít ra là trong ngành y học mà tôi đang làm. Trong khoa học, luôn có nhiều
nhóm cùng làm nghiên cứu về một đề tài, nhưng tại sao có những nhà khoa học hay
công trình khoa học được ghi nhận và nổi tiếng hơn các đồng nghiệp và công
trình khác. Ngoài lí do về chất lượng và ý nghĩa của nghiên cứu, tôi nghiệm ra
một phần của câu trả lời là kĩ năng ngoại giao của nhà khoa học. Do đó, khi nói
lobby ở đây, tôi muốn nói đến những kĩ năng làm cho công trình nghiên cứu của
mình được ghi nhận, được đề cập và trích dẫn, và qua đó gây ảnh hưởng trong
chuyên ngành.
Muốn cho công trình của mình được
nhiều người biết đến thì nhà khoa học phải biết cách “chào hàng” ý tưởng và
công trình của mình trong các diễn đàn khoa học, phải biết tận dụng tất cả cơ hội
(kể cả tranh thủ các tập san) để quảng bá nghiên cứu của mình đến cộng đồng
khoa học. Những bài báo tổng quan (review), bình luận (commentary), chương
sách… là những cơ hội lí tưởng để giới thiệu những công trình nghiên cứu của
mình đến đồng nghiệp quốc tế.
Nhưng để được mời viết những tổng
quan hay bình luận thì cá nhân nhà khoa học phải có một vị thế uy tín trong môi
trường khoa học và để tạo ra một vị thế đó, ngoài thành tích khoa học ra, cần
phải có kĩ năng ngoại giao. Nói cách khác, nhà khoa học phải biết và tranh thủ ủng
hộ của các nhà khoa học đàn anh, các nhóm nghiên cứu có tiếng trên thế giới để
được nằm trong quĩ đạo của những người “elite” (tinh tú, xuất sắc - Bản tin
ÐHQGHN).
Ông đánh giá kĩ năng của các nhà
khoa học Việt Nam như thế nào?
Theo tôi thì câu trả lời là:
Chưa. Các đại học nước ta chưa chuẩn bị tốt cho nghiên cứu sinh về các kĩ năng
thông tin. Tôi đã dự rất nhiều hội nghị, hội thảo, khoa học trong nước và có thể
nói rằng hầu hết các nghiên cứu sinh, thậm chí cả các giáo sư, thiếu kinh nghiệm
trình bày một nghiên cứu khoa học cho mạch lạc, chưa am hiểu những qui ước
trong việc soạn thảo powerpoint và nhất là chưa nói tiếng Anh thông thạo. Như
tôi nói, tiếng Anh thì có thể thông cảm được vì nó không phải là tiếng mẹ đẻ,
nên nếu có vài sai sót thì chắc chẳng ai phàn nàn. Nhưng một nhà khoa học cấp
giáo sư mà trình bày một nghiên cứu quá sơ sài, quá cẩu thả, và bất chấp qui ước
khoa học thì khó mà chấp nhận được. Trong thực tế, tôi đã thấy (và báo chí cũng
có lần phản ảnh) về các nhà khoa học hàng đầu nước ta khi nói chuyện trong hội
nghị quốc tế làm cho chủ tọa cứ lắc đầu. Do đó, tôi nghĩ những kĩ năng cơ bản
như kĩ năng thông tin cần phải được đưa vào chương trình học bắt buộc
(compulsory subject) cho sinh viên đại học. Trong khi chưa có những chương
trình giảng dạy như thế, tôi nghĩ chúng ta có thể tổ chức nhiều khóa học theo dạng
workshop cho các đồng nghiệp trong nước để chúng ta nhanh chóng làm quen với
“luật chơi” khoa học ở ngoài.
Thế còn ở Ðại học New South Wales
nơi ông đang làm việc, người ta tổ chức bồi dưỡng những kĩ năng này cho các nhà
khoa học như thế nào?
Ở Ðại học New South Wales và Viện
Garvan, chúng tôi có những khóa học chỉ chuyên dạy về cách viết một bài báo
khoa học hay đơn xin tài trợ, cách viết một đơn xin học bổng, cách trình bày một
nghiên cứu khoa học cho nghiên cứu sinh. Tôi cũng từng tham gia giảng dạy và soạn
tài liệu về cách viết một bài báo khoa học, nên qua đó cũng có thể chia sẻ với
các đồng nghiệp trong nước. Như vậy, muốn tiếp cận trình độ quốc tế, các nhà
khoa học và các nhà quản lý đại học cần phải quan tâm đặc biệt đến kĩ năng mềm.
Theo ông, các đại học Việt Nam cần
phải làm thế nào để các nhà khoa học có thể học hoặc tự học để nâng cao những
kĩ năng này?
Ông bà ta có câu “Không thầy đố
mày làm nên”. Nói đến “kĩ năng” là nói đến thực hành, và thực hành thì khó mà tự
học được. Những bài giảng, kể cả bài giảng về cách viết bài báo khoa học, tràn
ngập trên internet, nhưng không phải có những bài giảng đó là có thể viết một
bài báo khoa học được. Bất cứ kĩ năng nào cũng cần phải học và tiếp cận với những
người có kinh nghiệm.
Qua làm việc thực tế với các bạn
trong nước, tôi thấy cái khó khăn lớn nhất là các đại học Việt Nam chúng ta thiếu
những người có kinh nghiệm về các kĩ năng mềm này, đơn giản vì nhiều giáo sư và
nhà khoa học nước ta chưa từng công bố các nghiên cứu khoa học trên các tập san
quốc tế. Tuy ngày nay các đại học nước ta cũng có một số nhà khoa học được đào
tạo từ nước ngoài, nhưng khả năng độc lập mà họ có thể công bố một công trình
nghiên cứu trên các tập san quốc tế vẫn còn rất hạn chế. Do đó, chỉ có một cách
hữu hiệu nhất là mời các chuyên gia nước ngoài về trực tiếp giúp trang bị các
kĩ năng mềm này cho các nhà khoa học trong nước.
Một kinh nghiệm mà tôi thấy cần học
từ các nước láng giềng như Thái Lan và Nhật là ở một số đại học lớn tại các nước
này, người ta có hẳn một hay hai người ngoại quốc nói tiếng Anh chuyên làm nghề
biên tập khoa học (scientific editor) cho trường. Khi nhà khoa học soạn xong một
bản thảo, họ trực tiếp làm việc với các chuyên gia này để hoàn chỉnh bản thảo
trước khi gửi đi nộp cho một tập san khoa học. Tôi thấy đây cũng là một mô hình
thực tế có thể giúp nâng cao sự có mặt của khoa học Việt Nam trên trường quốc tế.
Cộng đồng khoa học, cũng như xã hội, là một tập thể với những quan hệ đa chiều.
Nhà khoa học phải phụ thuộc lẫn nhau để tồn tại và phát triển. Trong mối quan hệ
đa chiều như thế, kĩ năng ngoại giao rất quan trọng trong việc quảng bá công
trình nghiên cứu của mình.
===
Một số nguyên tắc khi đặt tựa đề
cho bài báo khoa học
1. Nên cố gắng đặt tựa đề với một
thông điệp mới. Làm được như thế rất dễ gây sự chú ý của người đọc. Ví dụ: “A
novel relationship between osteocalcin and diabetes mellitus”, ở đây chữ novel
có tác dụng gợi ra một cái mới và làm cho người đọc thấy thích thú.
2. Không nên viết tựa đề theo kiểu
phát biểu (statement). Khoa học không có gì là bất biến và “sự thật” hôm nay có
thể sai trong tương lai. Do đó những tựa đề như “Smoking causes cancer” nó chẳng
những cho thấy sự ấu trĩ hay ngây thơ trong khoa học của tác giả mà còn làm cho
người đọc cảm thấy rất khó chịu.
3. Không bao giờ sử dụng viết tắt
trong tựa đề bài báo. Mỗi công trình nghiên cứu thường tập trung vào một vấn đề
chuyên sâu nào đó, và nếu chúng ta sử dụng viết tắt thì chỉ những người trong
ngành mới hiểu, còn người ngoài ngành không hiểu và đó là một thiệt thòi cho
nghiên cứu của mình.
4. Không nên viết tựa đề theo kiểu
nghịch lí. Những tựa đề nghịch lí là “Yếu A ảnh hưởng xấu đến X, nhưng tác động
tốt đến Y”. Những tựa đề kiểu này có thể làm cho người đọc khó chịu, và có khi
làm lẫn lộn vấn đề của nghiên cứu.
5. Tựa đề không nên quá dài hay
nhiều chữ. Tựa đề có nhiều chữ làm khó đọc và làm cho người đọc… dễ quên. Thông
thường, tác giả nên cố gắng đặt tựa đề dưới 20 chữ. Có nhiều bài báo mà tựa đề
có khi chỉ một chữ!
Một số nguyên tắc khi trình bày
Power Point báo cáo khoa học
1. Nên dùng font chữ không có
chân và Sans Serif như Arial hay Tahoma để khán giả dễ đọc. Những font chữ có
chân như Times New Roman hay Courier làm cho khán giả tốn nhiều thời gian hơn để
theo dõi.
2. Nên dùng cỡ chữ từ 18 trở lên,
vì chữ nhỏ hơn làm cho người có tuổi khó đọc, còn chữ quá lớn thì tốn nhiều
không gian.
3. Tránh viết toàn bộ bằng chữ in
hoa vì rất khó đọc, và gây ấn tượng là diễn giả đang la hét!
4. Nên chọn chữ tối trên nền sáng
cho giảng dạy hay nói chuyện trong giảng đường nhỏ.
5. Nên chọn chữ sáng trên nền tối
cho các báo cáo khoa học và trong các giảng đường rộng. Tránh chữ màu xanh lá
cây trên nền màu đỏ vì dễ gây "ngộ độc màu" cho người theo dõi.
6. Không nên cho âm thanh chạy
theo chữ. Không nên sử dụng hoạt hình quá nhiều, vì nó gây ấn tượng diễn giải
là… trẻ con.
7. Không nên nhồi nhét quá nhiều
thông tin và hình ảnh trong một slide, vì nó làm giảm sự chú ý và gây lẫn lộn
cho diễn giả.
8. Không nên đọc slide! Ðọc slide
gây ấn tượng “trả bài” và làm cho người nghe không có hứng thú theo dõi.
Một số yếu tố làm cho người nghe
chán
Kết quả nghiên cứu trên 159 khán
giả về những yếu tố làm cho người nghe cảm thấy chán và sao lãng vấn đề.
1. Diễn giả đọc slide (60%)
2. Chữ quá nhỏ (51%)
3. Câu dài và không có gạch đầu
dòng (48%)
4. Chọn màu khó đọc (37%)
5. Chữ chạy lòng vòng, hoạt cảnh
nhiều (25%)
6. Dùng âm thanh đệm vào chữ
(22%)
7. Biểu đồ, hình minh hoạ quá phức
tạp (22%)
Phạm Hiệp (thực hiện) [Bản tin
ĐHQG Hà Nội - số 216, 2009)
2. Thế nào là một “bài báo khoa học” ?
Bài này đã đăng trên Tia Sáng số
tháng 12/2005, nhưng không đầy đủ nội dung. Đây là nguyên bản đầy đủ nhất của
tác giả gởi cho YKHOANET.
Nguyễn Văn Tuấn
Sau khi đọc qua loạt bài chỉ dẫn
cách viết một bài báo khoa học trên trang web www.ykhoa.net một số bạn đọc viết thư
cho tôi hỏi thế nào là một bài báo khoa học? Có bạn hỏi cụ thể: “có phải những
bài báo cáo trong các hội nghị khoa học là một bài báo khoa học không?” Thoạt
đầu tôi rất ngạc nhiên về câu hỏi này, nhưng sau khi trao đổi với nhiều đồng
nghiệp trong và ngoài nước tôi, thấy có thể đây là một vấn đề về nhận thức, bởi
vì nhiều nhà nghiên cứu vẫn chưa phân biệt được những khác biệt và giá trị của
những bài báo trên diễn đàn khoa học quốc tế.
Báo điện tử VietnamNet số ra
ngày 11/3/2004 trong bài phỏng vấn giáo sư Đỗ Trần Cát về tiêu chuẩn mới
trong việc phong chức danh giáo sư có một trao đổi đáng chú ý như sau:
“Phóng viên: “Thực ra, đến nay
vẫn chưa có định nghĩa nào về ‘bài báo khoa học’. Vậy năm nay, với những sửa
đổi như ông nói thì quy định về "bài báo khoa học" có gì khác?
Trả lời: Bài báo khoa học phải
là công trình khoa học chứa đựng kết quả nghiên cứu mới, phù hợp với chuyên
ngành đăng ký chức danh. Bài báo đó phải được công bố trên một trong những tạp
chí khoa học chuyên ngành quy định. Cụ thể là: Các tạp chí uy tín do các
Hội đồng chức danh giáo sư ngành, liên ngành lựa chọn, đề nghị thường trực Hội
đồng nhà nước về chức danh giáo sư quyết định.” (http://vietnamnet.vn/giaoduc/vande/2004/03/54931/,
truy nhập ngày 22/11/2005)
Ở đây, trong khuôn khổ bài viết
này, tôi sẽ nới rộng định nghĩa trên và cụ thể hóa thế nào là một bài báo
khoa học. Tôi sẽ xoay quanh ba khía cạnh chính: phân loại bài báo khoa học, tập
san khoa học và cơ chế bình duyệt bài báo khoa học.
Trong hoạt động nghiên cứu khoa
học, bài báo khoa học đóng một vai trò hết sức quan trọng. Nó không chỉ là sản
phẩm tri thức, mà còn là một loại tiền tệ của giới làm khoa học, bởi vì qua
đó mà người ta có thể đánh giá khả năng chuyên môn và năng suất khoa học của
nhà nghiên cứu. Giới làm nghiên cứu khoa học nói chung nhất trí rằng cái chỉ
tiêu số 1 để đề bạt một nhà khoa học là dựa vào số lượng và chất bài báo khoa
học đã công bố trên các tập san chuyên ngành [1]. Trên bình diện quốc gia, số
lượng bài báo khoa học là một thước đo về trình độ khoa học kĩ thuật và hiệu
suất khoa học của một nước. Chính vì thế mà tại các nước Tây phương, chính phủ
có hẳn một cơ quan gồm những chuyên gia chuyên đo đếm và đánh giá những bài
báo khoa học mà các nhà khoa học của họ đã công bố trong năm.
Nhưng cũng giống như sản phẩm
công nghệ có nhiều hình thức và giá trị khác nhau, các bài báo khoa học cũng
xuất hiện dưới nhiều dạng khác nhau và giá trị cũng không đồng nhất. Đối với
người ngoài khoa học và công chúng nói chung, phân biệt được những bài báo
này không phải là một chuyện dễ dàng chút nào. Thật ra theo kinh nghiệm của
người viết bài này, ngay cả trong giới khoa bảng và giáo sư đại học, có khá
nhiều người vẫn chưa biết thế nào là một bài báo khoa học nghiêm chỉnh và có
lẽ vì hiểu sai cho nên một số giáo sư đã trình bày trong lí lịch khoa học của
mình một cách thiếu chính xác, có khi khá khôi hài. Bài viết ngắn này sẽ bàn
qua về tiêu chuẩn của một bài báo khoa học. Phần lớn những phát biểu trong
bài viết này được rút ra từ kinh nghiệm thực tế trong lĩnh vực y sinh học, và
có thể không hoàn toàn đúng cho các lĩnh vực nghiên cứu khác mà bạn đọc có thể
bổ sung thêm.
Bài báo khoa học
Nói một cách ngắn gọn, bài báo
khoa học (tiếng Anh: “scientific paper” hay có khi viết ngắn là paper)
là một bài báo có nội dung khoa học được công bố trên một tập san khoa học
(scientific journal) đã qua hệ thống bình duyệt (peer-review) của tập san. Ở
đây có ba vế của định nghĩa mà bài này sẽ lần lược bàn đến: nội dung bài
báo, tập san, và cơ chế bình duyệt. Trước hết xin bàn về nội dung
khoa học của một bài báo.
Như nói trên, giá trị khoa học
của một bài báo tùy thuộc một phần lớn vào nội dung của bài báo. Bởi vì báo
cáo khoa hoc xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, giá trị của chúng cũng
không nhất thiết đồng nhất. Sau đây là một số bài báo khoa học thông thường
và tôi xếp loại theo thang giá trị (cao nhất đến thấp nhất).
Thứ nhất là những bài báo mang
tính cống hiến nguyên thủy (original contributions). Đây là những bài
báo khoa học nhằm báo cáo kết quả một công trình nghiên cứu, hay đề ra một
phương pháp mới, một ý tưởng mới, hay một cách diễn dịch mới. Có khi một công
trình nghiên cứu có thể có nhiều phát hiện mới, và cần phải có nhiều bài báo
nguyên thủy để truyền đạt những phát hiện này. Một công trình nghiên cứu lâm
sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized clinical trials) hay một công trình dịch
tễ học lớn có thể có đến hàng trăm bài báo nguyên thủy.
Cống hiến mới cho khoa học
không chỉ giới hạn trong phát hiện mới, mà có thể bao gồm cả những phương
pháp mới để tiếp cận một vấn đề cũ, hay một cách diễn dịch mới cho một phát
hiện xa xưa. Do đó các bài báo khoa học ở dạng này cũng có thể xem là những cống
hiến nguyên thủy. Tất cả những bài báo này đều phải qua hệ thống bình duyệt một
cách nghiêm chỉnh.
Tất cả các bài báo thể hiện những
cống hiến nguyên thủy, trên nguyên tắc, đều phải thông qua hệ thống bình duyệt
trước khi được công bố. Một bài báo không hay chưa qua hệ thống bình duyệt
chưa thể xem là một “bài báo khoa học”.
Thứ hai là những bài báo nghiên
cứu ngắn, mà tiếng Anh thường gọi là “short communications”, hay “research
letters”, hay “short papers”, v.v... Đây là những bài báo rất ngắn (chỉ khoảng
600 đến 1000 chữ, tùy theo qui định của tập san) mà nội dung chủ yếu tập
trung giải quyết một vấn đề rất hẹp hay báo cáo một phát hiện nhỏ nhưng quan
trọng. Những bài báo này vẫn phải qua hệ thống bình duyệt nghiêm chỉnh, nhưng
mức độ rà soát không cao như các bài báo cống hiến nguyên thủy. Cần phải nói
thêm ở đây là phần lớn những bài báo công bố trên tập san Nature (một
tập san uy tín vào hàng số 1 trong khoa học) là “Letters”, nhưng thực chất đó
là những bài báo nguyên thủy có giá trị khoa học rất cao, chứ không phải những
lá thư thông thường.
Thứ ba là những báo cáo trường
hợp (case reports). Trong y học có một loại bài báo khoa học xuất hiện
dưới dạng báo cáo trường hợp, mà trong đó nội dung xoay quanh chỉ một (hay một
số rất ít) bệnh nhân đặc biệt. Đây là những bệnh nhân có những bệnh rất hiếm
(có thể 1 trên hàng triệu người) và những thông tin như thế cũng thể hiện một
sự cống hiến tri thức cho y học. Những báo cáo trường hợp này cũng qua bình
duyệt, nhưng nói chung không khó khăn như những bài báo nguyên thủy.
Thứ tư là những bài điểm báo
(reviews). Có khi các tác giả có uy tín trong chuyên môn được mời viết
điểm báo cho một tập san. Những bài điểm báo không phải là những cống hiến
nguyên thủy. Như tên gọi (cũng có khi gọi là perspective papers) bài điểm báo
thường tập trung vào một chủ đề hẹp nào đó mà tác giả phải đọc tất cả những
bài báo liên quan, tóm lược lại, và bàn qua về những điểm chính cũng như đề
ra một số đường hướng nghiên cứu cho chuyên ngành. Những bài điểm báo thường
không qua hệ thống bình duyệt, hay có qua bình duyệt nhưng không nghiêm chỉnh
như những bài báo khoa học nguyên bản.
Thứ năm là những bài xã luận
(editorials). Có khi tập san công bố một bài báo nguyên thủy quan trọng
với một phát hiện có ý nghĩa lớn, ban biên tập có thể mời một chuyên gia viết
bình luận về phát hiện đó. Xã luận cũng không phải là một cống hiến nguyên thủy,
do đó giá trị của nó không thể tương đương với những bài báo nguyên thủy.
Thông thường, các bài xã luận không qua hệ thống bình duyệt, mà chỉ được ban
biên tập đọc qua và góp vài ý nhỏ trước khi công bố.
Thứ sáu là những thư cho tòa soạn
(letters to the editor). Nhiều tập san khoa học dành hẳn một mục cho bạn
đọc phản hồi những bài báo đã đăng trên tập san. Đây là những bài viết rất ngắn
(chỉ 300 đến 500 chữ, hay một trang -- tùy theo qui định của tập san) của bạn
đọc về một điểm nhỏ nào đó của bài báo đã đăng. Những thư này thường phê bình
hay chỉ ra một sai lầm nào đó trong bài báo khoa học đã đăng. Những thư bạn đọc
không phải qua hệ thống bình duyệt, nhưng thường được gửi cho tác giả bài báo
nguyên thủy để họ đáp lời hay bàn thêm. Tuy nói là thư bạn đọc, nhưng không
phải thư nào cũng được đăng, nếu không nêu được vấn để một cách súc tích và
có ý nghĩa.
Và sau cùng là những bài báo
trong các kỉ yếu hội nghị. Trong các hội nghị chuyên ngành, các nhà
nghiên cứu tham dự hội nghị và muốn trình bày kết quả nghiên cứu của mình thường
gửi bài báo để đăng vào kỉ yếu của hội nghị. Có hai loại bài báo trong nhóm
này: nhóm 1 gồm những bài báo ngắn (proceedings papers), và nhóm 2 gồm những
bản tóm lược (abstracts).
Những bài báo xuất hiện dưới dạng
“proceeding papers” thường ngắn (khoảng 5 đến 10 trang), mà nội dung chủ yếu
là báo cáo sơ bộ những phát hiện hay phương pháp nghiên cứu mới. Tùy theo hội
nghị, đại đa số những bài báo dạng này không phải qua hệ thống bình duyệt,
hay có qua nhưng cũng không nghiêm chỉnh như hệ thống bình duyệt của những
bài báo nguyên thủy. Cần nhấn mạnh rằng đây không phải là những bài báo khoa
học bởi vì chúng chưa xuất hiện trên các tập san khoa học và qua bình duyệt
nghiêm chỉnh.
Các bản tóm lược, như tên gọi,
thực chất là những bản tin khoa học ngắn (chỉ dài từ 250 chữ đến 500 chữ) mà
nội dung là tóm tắt một công trình nghiên cứu. Những bản tin này cũng không
qua hệ thống bình duyệt. (Thực ra, không ai có thể thẩm định một công trình
nghiên cứu với 250 hay 500 chữ!) Vả lại, một hội nghị chuyên môn có khi nhận
đến 5000 bài tóm lược, cho nên ban tổ chức không thể có đủ người để làm công
việc bình duyệt bài vở một cách kĩ lưỡng và có hệ thống. Phần lớn, nếu không
muốn nói là 100%, các bài tóm lược đều được chấp nhận cho in trong các kĩ yếu
của hội nghị. Một lí do để chấp nhận tất cả các bài tóm lược là ban tổ chức
muốn có nhiều người dự hội nghị (nhiều người tham dự cũng có nghĩa là tăng
thu nhập cho ban tổ chức) cho nên họ không muốn từ chối một bài báo nào.
Tập san khoa học và hệ số ảnh
hưởng
Trong hoạt động khoa bảng, các
tập san khoa học là những tờ báo xuất bản định kì, có thể là mỗi tuần một lần,
mỗi tháng, hay mỗi 3 tháng, thậm chí hàng 6 tháng một lần. Mục tiêu chính của
các tập san khoa học là chuyên chở thông tin đến giới nghiên cứu khoa học nhằm
từng bước phát triển khoa học. Các tập san khoa học còn là những diễn đàn
khoa học để giới khoa học có cùng chuyên môn trao đổi và học hỏi với nhau. Phần
lớn các tập san khoa học rất chuyên sâu về một bộ môn khoa học
như American Heart Journal (chuyên về tim), American Journal
of Epidemiology (dịch tễ học), Bone (xương), Blood (máu), Neurology(thần
kinh học) … nhưng một số tập san như Science, Nature,Proceedings of
the National Academy of Science USA … công bố tất cả nghiên cứu từ bất cứ
bộ môn khoa học nào.
Trên thế giới ngày nay, có khoảng
3000 tập san y sinh học được công nhận, và con số vẫn tăng mỗi năm. (Được
công nhận ở đây có nghĩa là được nằm trong danh sách của tổ chức Index
Medicus). Tiêu chuẩn mà các tập san này dựa vào để công bố hay không công bố
một bài báo khoa học cũng rất khác nhau. Một số tập san
như Science, Nature, Cell,hay Physical Reviews chỉ công bố
những bài báo khoa học mà ban biên tập cho rằng thể hiện những cống hiến cơ bản,
những phát hiện quan trọng, hay những phương pháp mới có tiềm năng ứng dụng rộng
rãi trong cộng đồng khoa học. Do đó, các tập san này từ chối công bố hầu hết
các bài báo khoa học gửi đến cho họ. Theo một báo cáo gần đây các tập san này
chỉ công bố khoảng 1% những bài báo họ nhận được hàng năm. Nói cách khác, họ
từ chối khoảng 99% bài báo. Trong y học, các tập san hàng đầu như New
England Journal of Medicine, Lancet, vàJAMA từ chối khoảng 95% các
bài báo gửi đến, và chỉ công bố những bài báo quan trọng trong y khoa.
Giá trị khoa học của một bài
báo do đó không chỉ tùy thuộc vào nội dung, mà tập san công bố cũng đóng một
vai trò quan trọng. Chẳng hạn như trong y học một bài báo trên các tập san lớn
như New England Journal of Medicine (NEJM) hay Lancet có
giá trị hơn hẳn một bài báo trên các tập san y học của Pháp
hay Singapore Medical Journal. Điều này đúng bởi vì những công trình
nghiên cứu quan trọng thường được công bố trên các tập san lớn và có nhiều
người đọc, nhưng quan trọng hơn hết là những tập san này có một hệ thống bình
duyệt nghiêm túc.
Uy tín và giá trị của một tập
san thường được đánh giá qua hệ số ảnh hưởng (Impact
Factor hay IF). IF được tính toán dựa vào số lượng bài báo công bố và tổng
số lần những bài báo đó được tham khảo hay trích dẫn (citations). Theo định
nghĩa hiện hành, IF của một tập san trong năm là số lần tham khảo
trung bình các bài báo được công bố trên tập san trong vòng 2 năm trước [2].
Chẳng hạn như trong 2 năm 1981 và 1982, Tập san Lancet công bố 470
bài báo khoa học nguyên thủy; trong năm 1983 có 10.011 bài báo khác trên các
tất cả các tập san (kể cả Lancet) có tham khảo hay trích dẫn đến 470 bài
báo đó; và hệ số IF là 10.011 / 470 = 21,3. Nói cách khác, tính trung bình mỗi
bài báo nguyên thủy trên tờ Lancet có khoảng 21 lần được tham khảo đến hay
trích dẫn.
Vì yếu tố thời gian của việc
tính toán, cho nên hệ số IF cũng thay đổi theo thời gian và cách xếp hạng tập
san cũng thay đổi theo. Chẳng hạn như vào thập niên 1990s British Medical
Journal từng nằm trong nhóm các tập san hàng đầu trong y học, nhưng đến
đầu thế kỉ 21 tập san này bị xuống cấp nghiêm trọng. Trong y sinh học, có một
số tập san y học thuộc vào hàng “top 10” như sau (theo số liệu năm
2003): Annual review of immunology. (52,28), Annual review of
biochemistry (37,65), Physiological reviews (36,83), Nature reviews Molecular
cell biology (35,04), New England Journal of Medicine (34,83), Nature reviews
Cancer (33,95), Nature (30,98), Nature medicine (30,55), Annual review of
neuroscience (30,17), Science (29,16), Cell (26,63), Nature genetics (26,49),
Lancet (18,32), Journal of clinical investigation (14,30), v.v…(Chi tiết có
thể tham khảo trong bản thống kê phía dưới bài viết).
Do đó, tập san nào có hệ số IF
cao cũng được hiểu ngầm là có uy tín cao và ảnh hưởng cao. Công bố một bài
báo trên tập san có hệ số IF cao có thể đồng nghĩa với mức độ quan trọng và tầm
ảnh hưởng của bài báo cũng cao. Xin nhấn mạnh là “có thể” mà thôi, bởi vì qua
cách tính vừa trình bày trên, IF là chỉ số phản ánh ảnh hưởng của một tập
san, chứ không đo lường hệ số ảnh hưởng phải một bài báo cụ thể nào. Một bài
báo trên một tập san có hệ số IF thấp nhưng có thể được trích dẫn nhiều lần.
Chẳng hạn như một bài báo viết về một phương pháp phân tích thống kế trong di
truyền học công bố trên tập san Behavior Genetics(với IF thấp hơn 2),
nhưng được trích dẫn và tham khảo hơn 10.000 lần trong 20 năm sau đó!
Khiếm khuyết của hệ số IF đã được
nêu lên khá nhiều lần trong quá khứ [3,4]. Ngay cả người sáng lập ra hệ số IF
cũng thú nhận những thiếu sót của hệ số này. Một số bộ môn khoa học có xu hướng
(hay truyền thống) công bố ra nhiều bài báo ngắn, hay đơn thuần là họ có truyền
thống trích dẫn lẫn nhau, thậm chí tự mình trích dẫn mình! Có nhiều nhà khoa
học trích dẫn hay liệt kê những bài báo mà họ hoặc là không hay chưa đọc
(nhưng chỉ trích dẫn theo sự trích dẫn của người khác, đây là một vi phạm
khoa học). Ngoài ra, những bộ môn nghiên cứu lớn (như y khoa chẳng hạn) có
nhiều nhà nghiên cứu và con số bài báo cũng như chỉ số trích dẫn cũng tăng
theo. Nói một cách ngắn gọn, con số thống kê bài báo và chỉ số trích dẫn chịu
ảnh hưởng của nhiều yếu tố ngoại vi hơn là chất lượng khoa học. Cũng không loại
trừ khả năng những công trình nghiên cứu tồi, sai lầm vẫn được nhiều người nhắc
đến và trích dẫn (để làm gương cho người khác). Phần lớn những bài báo được
trích dẫn nhiều lần là những bài báo liên quan đến phương pháp, hay thuộc loại
điểm báo. Nhiều nghiên cứu “tốt”, có chất lượng thường đi trước thời gian, và
người ta chỉ hiểu rõ giá trị của chúng sau nhiều năm sau khi công bố.
Dù bíết rằng hệ số IF có nhiều
khiếm khuyết như thế, nhưng hiện nay chúng ta chưa có một hệ thống nào công bằng
và tốt hơn để thẩm định chất lượng một tập san. Cho nên, hệ số IF vẫn được sử
dụng như là một thước đo chất lượng, với một sự dè dặt và cẩn thận cần thiết.
Cơ chế bình duyệt
Để hiểu cơ chế bình duyệt, tôi
xin nói sơ qua về qui trình công bố một bài báo khoa học như sau. Sau khi tác
giả gửi bản thảo của bài báo đến một tập san chuyên môn, tổng biên tập
(Editor-in-Chief) hay phó tổng biên tập (Associate Editors) của tập san sẽ
xem lướt qua bài báo và quyết định bài báo có xứng đáng được gửi ra ngoài để
bình duyệt hay không. Nếu không xứng đáng, tổng biên tập sẽ báo ngay (trong
vòng 1 tháng) cho tác giả biết là bài báo không được bình duyệt. Nếu thấy bài
báo có giá trị và cần được bình duyệt, tổng biên tập sẽ gửi bản thảo cho 3
(hoặc có khi 4) người bình duyệt.
Những người bình duyệt là những
chuyên gia, giáo sư có cùng chuyên môn với tác giả và am hiểu về vấn đề mà
bài báo quan tâm. Tác giả sẽ không biết những người này là ai, nhưng những
người bình duyệt thì biết tác giả là ai vì họ có toàn bộ bản thảo! Những người
bình duyệt sẽ đọc và đánh giá bài báo dựa theo những tiêu chí thông thường
như mục tiêu nghiên cứu có đem lại cái gì mới không, phương pháp nghiên cứu
có thỏa đáng hay không, kết quả đã được phân tích bằng các phương pháp thích
hợp hay không, trình bày dữ kiện có gọn gàng và dễ hiểu hay không, phần thảo
luận có diễn dịch “quá đà” hay không, phần tham khảo có đầy đủ hay không,
ngôn ngữ bài báo và văn chương có chuẩn hay không, v.v. và v.v. Nói tóm lại
là họ xem xét toàn bộ bài báo, và viết báo cáo cho tổng biên tập. Họ có thể đề
nghị tổng biên tập nên chấp nhận hay từ chối đăng bài báo. Tuy quyết định cuối
cùng là của tổng biên tập, nhưng thông thường chỉ một người bình duyệt đề nghị
từ chối bài báo thì số phận bài báo coi như “đã rồi”. Giai đoạn này tốn khoảng
1 đến 4 tháng.
Sau khi đã nhận được báo cáo của
người bình duyệt, tổng biên tập sẽ chuyển ngay cho tác giả. Tùy theo đề nghị
của những người bình duyệt, tổng biên tập có thể cho tác giả một cơ hội để phản
hồi những phê bình của người bình duyệt, hay từ chối đăng bài. Nếu có cơ hội
phản hồi, tác giả phải trả lời từng phê bình một của từng người
bình duyệt. Bài phản hồi phải được viết như một báo cáo, và tất cả những thay
đổi trong bài báo tác giả phải báo cho tập san biết. Giai đoạn này tốn từ 1 đến
3 tháng.
Sau khi nhận được phản hồi của
tác giả, tổng biên tập và ban biên tập có thể quyết định chấp nhận hay từ chối
bài báo. Nếu bài phản hồi không trả lời tất cả phê bình, hay trả lời không thỏa
đáng, tổng biên tập có thể từ chối đăng bài ngay mà không cần gửi cho người
bình duyệt xem lại. Nếu bài phản hồi cần xem xét lại tổng biên tập sẽ gửi cho
những người bình duyệt xem lại một lần nữa và tác giả có khi phải phản hồi một
lần sau cùng. Giai đoạn này cũng tốn từ 1 đến 3 tháng.
Nói chung một bài báo từ lúc nộp
bài cho đến lúc xuất hiện trên mặt giấy – nếu mọi bình duyệt và phản hồi đều
trôi chảy – tốn khoảng 9 tháng đến 12 tháng. Bởi vì thời gian quá lâu như thế,
cho nên một số tác giả có khi quyết định tự công bố trước dưới dạng sơ bộ
(còn gọi là “pre-print”) để chia sẻ với đồng nghiệp. Ngày nay, với sự tiến bộ
phi thường của công nghệ thông tin và internet, nhiều tập san đã có thể công
bố ngay bài báo trên hệ thống internet (trước khi in) nếu bài báo đã qua bình
duyệt và được chấp nhận cho công bố. Một số tập san còn hoạt động hoàn toàn
trên hệ thống internet mà không phải qua hình thức in ấn gì cả.
Cơ chế bình duyệt là một cơ chế
có mục đích chính là thẩm định và kiểm tra các bài báo khoa học trước khi chấp
nhận cho công bố trên một tập san khoa học. Cơ chế này còn được ứng dụng
trong việc duyệt những đơn xin tài trợ cho nghiên cứu tại các nước Tây
phương. Tuy một cơ chế bình duyệt như thế không phải hoàn toàn vô tư và hoàn
hảo, nhưng nó là một cơ chế tốt nhất hiện nay mà giới khoa học đều công nhận.
Như trình bày trên, cơ chế bình
duyệt có mục đích chính là đánh giá và kiểm tra các bài báo khoa học trước
khi chấp nhận cho công bố trên một tập chí khoa học. Cơ chế này còn được ứng
dụng trong việc duyệt những đơn xin tài trợ cho nghiên cứu. Qua cơ chế này mà
tập san có thể ngăn chận những cặn bã, rác rưởi khoa học, và giúp cho tập san
hay các cơ quan cung cấp tài trợ đi đến một quyết định công bằng. Trên nguyên
tắc, đây là một cơ chế hay và công bằng, bởi vì những người duyệt bài hay
công trình nghiên cứu là những người có cùng chuyên môn, họ chính là những
người có thẩm quyền và khả năng đánh giá chất lượng của công trình nghiên cứu.
Nhưng nhà khoa học cũng chỉ là những người có tình cảm và thiên kiến, cũng là
những người chịu sự chi phối của các nhu cầu tất yếu, cũng cạnh tranh, cho
nên kết quả duyệt bài khoa học không phải lúc nào cũng hoàn toàn khách quan.
Rất nhiều người từng trải qua cái cơ chế này cho rằng đó là một hệ thống
không hoàn chỉnh và có khi thiếu công bằng. Tuy nhằm mục đích ngăn chận rác
rưởi khoa học, nhưngcơ chế kiểm duyệt bài vở không thể (hay ít khi nào) phát
hiện những lỗi lầm mang tính cố ý lường gạt (như giả tạo số liệu chẳng hạn),
bởi vì chức năng của cơ chế này không làm việc đó. Do đó, đối với một số nhà
khoa học, cơ chế bình duyệt là một cách làm việc vô bổ và vô giá trị [5,6].
Nhưng vấn đề thực tế là ngoài cơ chế bình duyệt đó, chưa có cơ chế nào tốt
hơn! Và vì thế, chúng ta vẫn phải dựa vào cơ chế này để đánh giá một bài báo
khoa học.
Ý nghĩa xã hội của bài báo khoa
học
Đọc đến đây, tôi hi vọng bạn đọc
đã hiểu được thế nào là một bài báo khoa học. Xin nhắc lại để nhấn mạnh: một
bài báo chỉ khi nào được xem là “bài báo khoa học” nếu nó đã qua cơ chế bình
duyệt và được công bố trên một tập san chuyên môn. Những bài báo xuất hiện dưới
dạng “abstracts” hay thậm chí “proceedings” không thể xem là những bài báo
khoa học bởi vì nó không đáp ứng được hai yêu cầu trên. Thế nhưng trong thực
tế đã có rất nhiều nhà khoa học, kể cả ở trong nước, có lẽ do hiểu lầm đã liệt
kê những “abstracts” và “proceedings” như là những bài báo khoa học trong lí
lịch khoa học của họ! Đối với nhiều người không am hiểu hoạt động khoa học
thì những ngộ nhận này chẳng ảnh hưởng gì to lớn, nhưng đối với giới làm
nghiên cứu khoa học nghiêm chỉnh, một lí lịch khoa học với toàn những “bài
báo khoa học” như thế cho biết nhiều về tác giả hơn là khả năng nghiên cứu
khoa học của tác giả.
Trên bình diện quốc gia, công bố
báo cáo khoa học trên các diễn đàn khoa học quốc tế là một cách không chỉ nâng
cao sự hiện diện, mà còn nâng cao năng suất khoa học, của nước nhà. Ở phương
Tây người ta thường đếm số lượng bài báo khoa học mà các nhà khoa học công bố
trên các tập chí khoa học để đo lường và so sánh hiệu suất khoa học giữa các
quốc gia. Hiện nay, trong bất cứ lĩnh vực nào, phải nhìn nhận một thực tế là
hiệu suất khoa của nước ta chưa cao. Phần lớn các công trình nghiên cứu tại
nước ta chỉ được kết thúc bằng những buổi nghiệm thu hay luận án. Đối với hoạt
động khoa học, cho dù công trình đã được nghiệm thu hay đưa vào luận án tiến
sĩ hay thạc sĩ , nếu chưa được công bố trên các diễn đàn khoa học quốc tế thì
công trình đó coi như chưa hoàn tất, bởi vì nó chưa qua “thử lửa” với môi trường
rộng lớn hơn.
Theo tác giả Phạm Duy Hiển (Tạp
chí Tia Sáng số Tháng 6 năm 2005) trong năm 2003, các nhà khoa học
Việt Nam đã công bố trên 7000 bài báo trên các tạp chí hay tập san khoa học
trong nước. Con số này rất ư là ấn tượng, song đó chỉ là những bài báo “ta viết
cho ta đọc” chứ trên trường quốc tế thì sự hiện diện của các nhà khoa học Việt
Nam còn rất khiêm tốn. Vẫn theo tác giả Phạm Duy Hiển, trong năm 2001 các nhà
khoa học Việt Nam chỉ công bố được 354 bài báo khoa học trên các tập san quốc
tế, mà 71% con số này là do cộng tác với các nhà khoa học ngoài Việt Nam.
Trong ngành y khoa, trong suốt 40 năm qua (tính từ 1965) các nhà khoa học tại
Việt Nam chỉ có khoảng 300 bài báo trên các tập san y sinh học quốc tế. Đó là
những con số cực kì khiêm tốn, khi so sánh với Thái Lan (5000 bài) hay
Singapore (20.000 bài).
Như đã có lần phát biểu, một
công trình nghiên cứu thường được tài trợ từ tiền bạc của người dân. Khi tiến
hành nghiên cứu, nhà nghiên cứu có khi phải nhờ đến sự tham gia của tình nguyện
viên hay của bệnh nhân. Nếu một công trình nghiên cứu đã hoàn tất mà kết quả
không được công bố, thì công trình nghiên cứu đó có thể xem là có vấn đề về y
đức và đạo đức khoa học, và nhà nghiên cứu có thể xem như chưa hoàn thành
nghĩa vụ của mình với sự đóng góp của người dân. Do đó, báo cáo khoa học trên
các diễn đàn khoa học quốc tế là một nghĩa vụ của nhà nghiên cứu,
là một cách gián tiếp cám ơn sự đóng góp của bệnh nhân và giúp đỡ của dân
chúng qua sự quản lí của nhà nước.
Trong quá trình hội nhập thế giới,
xã hội có quyền đòi hỏi nhà khoa học nước ta phải có tầm vóc và đứng vững
trên trường khoa học quốc tế. Đã đến lúc chúng ta phải đặt ra những tiêu chuẩn
nghiêm túc mà quốc tế đã và đang sử dụng để thẩm định thành tích nghiên cứu
khoa học của các giáo sư và nhà nghiên cứu ở nước ta.
Chú thích và tài liệu tham khảo:
[1] Để xét đề bạt giáo sư trong
các đại học Tây phương, ngoài các tiêu chuẩn về giảng dạy, tài trợ nghiên cứu
và phục vụ xã hội, một tiêu chuẩn quan trọng số 1 là số lượng và chất lượng
bài báo khoa học của ứng viên. Theo một qui định gần như “bất thành văn”, muốn
được đề bạt lên “assistant professor” (giáo sư dự khuyết) ứng viên phải có từ
3-5 bài báo khoa học; một associate professor (phó giáo sư) phải có từ 30 bài
báo khoa học trở lên; và một professor (giáo sư) phải có từ 50 bài báo trở
lên. Đây chỉ là những tiêu chuẩn rất chung chung và có thể nói là tối thiểu.
Cố nhiên, các tiêu chuẩn này còn tùy thuộc vào trường đại học và chuyên môn,
cho nên không ai có thể đưa ra một qui định chính xác được.
[2] Garfield E. The impact
factor [internet] Current Contents 1994 20;3-7 (cited 16 August 2002):http://sunweb.isinet.com/isi/hot/essays/journalcitationreports/7.html.
[3] Seglen PO. Why the impact
factor of journals should not be used for evaluating research. BMJ 1997;
314:497-9.
[4] Phelan TJ. A compendium of
issues for citation analysis. Scientometrics 1999; 45:117-36.
[3] Garfield E. Random thoughts
on citationology: its theory and practice. Scientometrics 1998; 43:69-76.
[4] Campanario J. Peer review
for journals as it stands today, Part 2. Science Communication 1998;
19:277-306
[5] Cole S, et al. Chance and
consensus in peer review. Science 214:881-6, 1981.
Hệ số ảnh hưởng (impact factor)
năm 2003
của 100 tập san khoa học hàng đầu
(nguồn: http://vasehin.hotmail.ru/03_01.html)
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Nguồn:
|
0 Comments:
Bài đăng Mới hơn Bài đăng Cũ hơn Trang chủ
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)