Một trong những vấn đề "nhức
nhối" của các đồng nghiệp là viết một bài báo khoa học đạt chuẩn có thể
công bố trên một tập san quốc tế. Trong loạt bài này, chúng tôi sẽ chỉ dẫn cách
thức viết một bài báo khoa học cho các bạn nghiên cứu sinh và đồng nghiệp đang
làm nghiên cứu và có ý định công bố kết quả trên các tập san y khoa quốc tế.
Tại sao phải công bố báo cáo khoa
học?
Trong hoạt động nghiên cứu khoa học,
các bài báo khoa học đóng một vai trò rất quan trọng. Nó không chỉ là một
bản báo cáo về một công trình nghiên cứu, mà còn là một đóng góp cho kho tàng
tri thức của thế giới. Khoa học tiến bộ cũng nhờ một phần lớn vào thông
tin từ những bài báo khoa học, bởi vì qua chúng mà các nhà khoa học có dịp trao
đổi, chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
Một công trình nghiên cứu thường
được tài trợ từ các cơ quan nhà nước, và số tiền này là do dân chúng đóng
góp. Khi tiến hành nghiên cứu, nhà nghiên cứu có khi phải nhờ đến sự tham
gia của tình nguyện viên hay của bệnh nhân. Trong trường hợp đó, tình
nguyện viên và bệnh nhân phải bỏ thì giờ, tạm bỏ qua công ăn việc làm để tự
nguyện cung cấp thông tin và có khi hi sinh một phần da máu cho nhà nghiên cứu.
Nếu một công trình nghiên cứu đã hoàn tất mà kết quả không được công bố, thì
công trình nghiên cứu đó có thể xem là có vấn đề về y đức và đạo đức khoa học,
và nhà nghiên cứu có thể xem như chưa hoàn thành nghĩa vụ của mình với sự đóng
góp của quần chúng. Do đó, báo cáo khoa học trên các diễn đàn khoa học quốc
tế là một nghĩa vụ của nhà nghiên cứu, là một cách gián tiếp cám ơn sự
đóng góp của bệnh nhân và giúp đỡ của dân chúng qua sự quản lí của nhà nước.
Đối với cá nhân nhà khoa học, báo
cáo khoa học trên các tập san khoa học quốc tế là một “currency” (đơn vị tiền tệ).
Đó là những viên gạch xây dựng sự nghiệp của giới khoa bảng. Tại các đại
học Tây phương, số lượng và chất lượng bài báo khoa học là tiêu chuẩn số một
trong việc xét đề bạt lên chức giảng sư hay giáo sư. Vì thế công bố báo
cáo khoa học, đối với giới khoa bảng Tây phương, là một việc làm ưu tiên hàng đầu
của họ. Chính vì thế mà các đại học Tây phương có cái văn hóa gọi là
“publish or perish” (xuất bản hay là tiêu tan). Nếu trong vòng 1 hay 2
năm mà nhà khoa bảng không có một bài báo nào đăng trên các tập san khoa học quốc
tế, ban giám hiệu sẽ mời vị đó trả lời câu hỏi “tại sao”. Nếu có lí do
chính đáng thì còn giữ chức vụ; nếu không có lí do chính đáng thì có nguy cơ mất
chức như bỡn.
Nói tóm lại, báo cáo khoa học
trên các diễn đàn khoa học quốc tế (không chỉ ở trong nước) là một việc làm
chính yếu, một nghĩa vụ, và một điều kiện để tồn tại của một nhà khoa học.
Nhưng từ lúc tiến hành nghiên cứu, thu thập dữ kiện đến lúc có báo cáo là một
quá trình gian nan. Một công việc còn gian nan hơn nữa là làm sao đảm bảo
báo cáo được đăng trên một tập san khoa học có uy tín trên thế giới. Vì
thế, các nhà khoa học cần phải đặc biết chú ý đến việc soạn thảo một báo cáo
khoa học sao cho đạt tiêu chuẩn quốc tế. Bài viết này mách bảo một cách
thân mật những “mẹo” và kĩ năng để đạt tiêu chuẩn đó.
Báo cáo khoa học: khổ hạnh
Mỗi bài báo khoa học là một công
trình khổ hạnh. “Khổ hạnh” ở đây phải được hiểu theo nghĩa vừa đau khổ, vừa
hạnh phúc. Đau khổ trong quá trình chuẩn bị và viết thành một bài báo, và
hạnh phúc khi nhìn thấy bài báo được công bố trên một tập san có nhiều đồng
nghiệp đọc và chia sẻ. Để đạt kết quả sau cùng này, tác giả phải phấn đấu
làm sao để giữ sự cân bằng giữa tính trong sáng và [nhưng] nội dung phải đầy đủ.
Bài báo phải làm sao hấp dẫn người đọc và để người đọc “nhập cuộc”.
Bài báo phải được viết bằng một văn phong cực kì súc tích, nhưng phải đầy đủ.
Đó là những yêu cầu rất khó mà không phải tác giả nào cũng đạt được.
Nếu không tiếp cận vấn đề một
cách có việc hệ thống, tất cả những nỗ lực cho một bài báo khoa học có thể trở
nên vô dụng, thậm chí đem lại ảnh hưởng xấu vì một công trình nghiên cứu sẽ
không có cơ hội xuất hiện trên các tập san chuyên môn. Mặc dù ở các nước
phương Tây, người ta đã có nhiều bài viết chỉ dẫn – thậm chí cả sách dạy – cách
viết một bài báo khoa học, nhưng ở nước ta, hình như vẫn chưa có một tài liệu
chỉ dẫn như thế. Bài viết này, vì thế, được soạn ra nhằm mục đích duy nhất
là cung cấp cho bạn đọc những chỉ dẫn đơn giản và thực tế để sao cho bạn đọc có
thể tự mình viết một bài báo khoa học đạt yêu cầu của các tập san khoa học quốc
tế.
Vạn sự khởi đầu nan …
Viết một bài báo tốt là một việc
làm không đơn giản chút nào, nếu không muốn nói là phức tạp. Nó đòi hỏi
người viết phải sáng tạo và suy tưởng … trong lặng lẽ. Con đường dẫn đến
một sản phẩm hoàn hảo không bao giờ là một con đường thẳng, mà là một con đường
với nhiều ngỏ ngách, nhiều đường cùng, và nhiều chông gai. Nói một cách
ngắn gọn, viết cần phải có thời gian. Thành ra, cách tốt nhất là phải khởi
công viết càng sớm càng tốt, đừng bao giờ để cho đến giai đoạn cuối của nghiên
cứu mới viết.
Tác giả có thể viết ngay những phần
cần viết ra của bài báo trong khi công trình nghiên cứu vẫn còn tiến
hành. Phát họa ra phần dẫn nhập (introduction) ngay từ khi công
trình nghiên cứu đang được thai nghén. Viết phầnphương pháp (methods)
ngay trong khi công trình nghiên cứu còn dở dang. Làm đến đâu, viết ngay
đến đó. Sau cùng là một phát họa những biểu đồ, bản thống kê cần phải có
trong bài báo.
Viết ra những ý tưởng và phương
pháp sớm giúp cho nhà nghiên cứu rất nhiều trong những lần sửa chữa sau
này. Chẳng hạn như làm sáng tỏ động cơ và lí do nghiên cứu trong phần dẫn
nhập giúp cho nhà nghiên cứu nhận ra bối cảnh mà công trình nghiên cứu có thể
đóng vai trò. Viết ra những phương pháp nghiên cứu giúp cho nhà nghiên cứu
khỏi phải tốn công xây dựng lại những bước đi, những thủ tục mà công trình
nghiên cứu đã hoàn tất. Việc phát thảo ra những biểu đồ và bản số liệu
giúp cho nhà nghiên cứu tập trung vào nỗ lực phân tích dữ kiện. Và quan
trọng hơn hết, khi ngồi xuống viết, tự việc làm đó, tạo cơ hội cho [hay nói
đúng hơn là bắt buộc] nhà nghiên cứu phải suy nghĩ nghiêm túc về việc làm của
mình.
Một điều quan trọng khác là tác
giả cần phải bỏ ra một thời gian tịnh tâm suy nghĩ về cái thông điệp của công
trình nghiên cứu cho cộng đồng khoa học. Trong phần này, tác giả nên chịu
khó viết ra những điểm chính nhằm trả lời những câu hỏi sau đây: tại sao mình
làm những gì mình đã làm; thực tế mình đã làm gì; mình phát hiện điều gì mới lạ;
và những điều này có ý nghĩa gì?
Tập trung vào những thông tin
chính
Mặc dù thành phần độc giả của các
tập san khoa học có thể rất đa dạng, một đặc tính mà giới chuyên môn đều có
chung là: bận rộn. Giới khoa học gia, bác sĩ, kĩ sư, nhà quản lí, lãnh đạo
… có lẽ chỉ nhìn qua bài báo khoa học một cách nhanh chóng, chứ ít khi nào có
thì giờ nghiền ngẫm từng chi tiết trong bài báo. Tuy rằng phần lớn tác giả
nghiên cứu biết điều này, nhưng họ có thể không nghĩ đến khi đặt bút xuống soạn
bài báo khoa học. Do đó, tác giả nên tự đặt mình vào vai trò của người đọc
và suy nghĩ như người đọc bằng cách chú ý đến những gì mà người đọc muốn tìm hiểu: tựa
đề bài báo, bản tóm tắt (abstract), những bản số liệu, và biểu đồ.
Tựa đề và tóm tắt
Tựa đề và bản tóm tắt là hai phản
chiếu đầu tiên đập vào mắt của người đọc. Đây cũng là phần mà đại đa số
người đọc đọc trước khi quyết định có nên đọc tiếp hay không. Tất nhiên,
tựa đề và bản tóm tắt là hai phần được đưa vào danh mục của thư viện điện tử.
Do đó, nhà nghiên cứu cần phải để tâm suy nghĩ cẩn thận khi soạn hai phần này
sao cho thu hút sự chú ý của người đọc. Hai phần này cần phải được viết
trước hết, trước khi cả đặt bút viết các phần khác của bài báo.
Bảng số liệu và biểu đồ
Yếu tố thị giác rất quan trọng.
Nếu người đọc quyết định đọc bài báo (sau khi đã xem qua tựa đề và bản tóm tắt),
họ sẽ tiếp tục xem đến các bảng thống kê và biểu đồ. Các bảng thống kê số
liệu thường được dùng để trình bày những số liệu mang tính trang trọng, tính
chính xác cao, tính chính thức. Các bảng thống kê có thể dùng để tổng hợp
và so sánh số liệu của các công trình nghiên cứu trong quá khứ, để giải thích mối
liên hệ giữa các nhân tố trong công trình nghiên cứu, hay trình bày những câu hỏi
đã được sử dụng trong công trình nghiên cứu.
Người Trung Hoa từng nói “Một biểu
đồ có giá trị bằng một vạn chữ viết.” Mục đích của biểu đồ là cung cấp một
ấn tượng về phát hiện chính của công trình nghiên cứu. Biểu đồ có khi được
dùng làm tài liệu giảng dạy. Vì thế biểu đồ là một phương tiện hữu hiệu
nhất để nhấn mạnh thông điệp của bài báo. Biểu đồ thường được sử dụng để
thể hiện xu hướng và kết quả cho từng nhóm, nhưng cũng có thể dùng để trình bày
dữ kiện một cách gọn gàng. Các biểu đồ dễ hiểu, nội dung phong phú là những
phương tiện vô giá. Do đó, nhà nghiên cứu cần phải suy nghĩ một cách sáng
tạo cách thể hiện số liệu quan trọng bằng biểu đồ.
Phát thảo một cách làm có hệ thống
Tiếp cận và phác họa cấu trúc của
một bài báo trước khi đặt bút viết tạo điều kiện dễ dàng cho tác giả sau này.
Bước đầu tiên đòi hỏi tác giả phải biết tập san mà mình muốn gửi bài báo,
bởi vì mỗi tập san có những yêu cầu khác nhau về hình thức cũng như nội
dung. Một khi đã xác định được tập san đối tượng, tác giả cần phải xem
qua phong cách và hình thức bài báo mà tập san đó qui định. Đặc biệt là
phải xem qua các bài báo đã được công bố trên tập san đó, như số lượng chữ là
bao nhiêu, biểu đồ phải trình bảy như thế nào, bảng số liệu phải viết ra sao,
trình bày phần tài liệu tham khảo theo cách gì, v.v... Phần lớn các tập
san y khoa và sinh học đều tuân thủ theo các qui định được công bố trong tài liệu Uniform
Requirements for Manuscripts Submitted to Biomedical Journals.
Có nhiều “chiến lược” để thu hút
người đọc theo dõi bài báo của mình. Cách tốt nhất và hiệu quả nhất có lẽ
là ngắn gọn. Không nên nhầm lẫn giữa sự phức tạp với tính tinh vi.
Câu văn cần phải ngắn gọn, đơn giản, nhưng chính xác và trực tiếp đi thẳng
vào vấn đề. Cũng cần phải nhận thức rằng có được một bài báo khúc chiết
như thế không phải là điều dễ dàng chút nào — nó đòi hỏi nhiều thời gian và suy
nghĩ.
Một bài báo khoa học hay cũng cần
phải được cấu trúc gọn gàng. Mỗi đoạn văn cần phải có một mục đích hay phải
nói lên được một ý tưởng. Mỗi câu văn phải phục vụ cho mục đích đó.
Các đoạn văn phải liên kết với nhau thành một chuỗi ý tưởng phản ánh lí
luận cho một thông điệp nào đó. Cách tổ chức hiển nhiên cho một bài báo
khoa học đạt là cấu trúc mà các tập san y khoa và sinh học thường sử dụng: dẫn
nhập, phương pháp, kết quả, và thảo luận. Cấu trúc này còn được gọi bằng
tiếng Anh là IMRAD (Introduction Methods Results And Discussion).
Dẫn nhập (Introduction)
“Nhiệm vụ” thiết yếu nhất trong
phần dẫn nhập là phải làm sao làm cho người đọc tiếp nhận bài báo và quan tâm đến
kết quả của công trình nghiên cứu. Hơn nữa, phần dẫn nhập còn giúp cho
người bình duyệt bài báo hay tổng biên tập tập san thẩm định tầm quan trọng của
bài báo. Trong phần dẫn nhập, tác giả phải nói rõ tại sao công trình
nghiên cứu ra đời và tại sao người đọc phải quan tâm đến công trình đó. Sơ
đồ 1 sau đây phác họa cái khung cho phần dẫn nhập được viết với 3 đoạn
văn.
Đọan văn thứ nhất mô tả một vấn đề
chung hay yếu tố chung làm động cơ cho công trình nghiên cứu. Đặc biệt là
câu văn đầu tiên phải “mạnh mẽ” và làm sao thu hút chú ý của người đọc.
Đoạn văn thứ hai tập trung vào vấn đề cụ thể mà công trình nghiên cứu phải giải
quyết. Trong đoạn văn này, tác giả có thể nêu ra những vấn đề mà người đọc
có thể chưa từng biết qua. Đoạn văn thứ hai cũng cần nêu lên cái khoảng
trống tri thức mà cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời. Đoạn văn thứ ba mô
tả các mục tiêu của công trình nghiên cứu. Phần dẫn nhập phải được làm
sao mà đọc đến đoạn thứ ba, người đọc cảm thấy háo hức và thiết tha đọc các phần
kế tiếp của bài báo.
Sơ đồ 1. Khung bài cho phần
dẫn nhập (3 đoạn văn)
Đoạn văn
|
Câu hỏi
|
Ví dụ
|
||
Ví dụ 1
|
Ví dụ 2
|
Ví dụ 3
|
||
1
|
Vấn đề chung là gì, tình hình
hiện nay ra sao?
|
Loãng xương là một bệnh nghiêm
trọng trong người có tuổi vì nó là nguyên nhân dẫn đến gãy xương.
|
Có nhiều bằng chứng cho thấy
carotid endarterectomy có thể làm giảm nguy cơ bệnh tim.
|
Tiểu đường thận (diabetic
nephropathy) là nguyên nhân số một của bệnh thận vào giai đoạn cuối.
|
2
|
Vấn đề cụ thể là gì, và trong
kho tàng tri thức còn khoảng trống nào?
|
Mật độ xương (BMD) là một yếu tố
quan trọng trong việc chẩn đoán loãng xương trong người Âu Mĩ. Tuy
nhiên trong người Việt sự chính xác của BMD trong việc tiên đoán gãy xương vẫn
chưa được nghiên cứu.
|
Thông tin về carotid
endarterectomy vẫn còn rất hạn chế. Do đó, cho đến nay quyết định liên
quan đến phẫu thuật này vẫn còn chưa được rõ ràng.
|
Mặc dù microalbumin được đề nghị
dùng để truy tìm bệnh tiểu đường thận, nhưng phần lớn bác sĩ vẫn không tuân
theo qui định chung này.
|
3
|
Thế thì công trình nghiên cứu
này sẽ đóng góp gì ?
|
Nghiên cứu khả năng ứng dụng
BMD trong người Việt hay một dân số khác sẽ giúp cho việc phát triển một tiêu
chuẩn chẩn đoán mới.
|
Để giúp cho bác sĩ thẩm định lợi
ích của carotid endarterectomy, chúng tôi tính toán số ca phẫu thuật cần thiết
để ngăn ngừa một ca bệnh tim trong những điều kiện khác nhau.
|
Nhằm mục đích phát triển một
phương pháp mới và đơn giản hơn cho việc chẩn đoán tiểu đường thận, chúng tôi
ứng dụng một mô hình quyết định (decision making model) và phân tích hệ quả của
thuật chữa trị ACE
|
Phương pháp (Methods)
Phần phương pháp phải cung cấp một
cách chi tiết những gì tác giả đã làm và làm như thế nào trong công trình
nghiên cứu. Ở đây, tác giả phải cẩn thận quân bình giữa hai nhu cầu: súc
tích (vì không thể mô tả tất cả các kĩ thuật với những chi tiết chi li) và đầy
đủ (tác giả phải trình bày đầy đủ thông tin sao cho người đọc biết được những
gì đã làm). Đạt được sự cân đối giữa súc tích và đầy đủ là một thách thức
của người viết, và có thể của cả biên tập và nhà xuất bản. Phần phương
pháp cần phải cho người đọc những thông tin liên quan đến tính khái quát hóa
(chẳng hạn như đối tượng nghiên cứu là ai, có tiêu chuẩn nào tuyển chọn đối tượng
hay không, hay cách thức chọn mẫu như thế nào …)
Có thể bài báo đề ra một phương
pháp mới, và trong trường hợp đó, tác giả cần phải chú ý những tên gọi (và ý tưởng)
xuất hiện nhiều lần trong bài báo. Tác giả nên suy nghĩ kĩ về những tên gọi
này: phải dùng chữ ngắn gọn mà dễ hiểu. Nên gọi phương pháp điều trị là
gì? Phải sử dụng từ gì để mô tả chỉ tiêu của nghiên cứu? Kinh nghiệm
người viết bài này cho thấy trước khi viết cần phải liệt kê ra danh sách những
từ hay sử dụng trong bài báo. Không có gì lẫn lộn và khó chịu người đọc
hơn là dùng nhiều từ khác nhau để gọi một hiện tượng!
Một cấu trúc cứng nhắc sẽ làm cho
phần phương pháp trở thành máy móc. Nhưng đó lại là cấu trúc mà các tập
san y khoa đòi hỏi cho các nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized
clinical trial). Trong cấu trúc này, tác giả phải viết dưới các tiêu đề
như khái quát, nơi làm nghiên cứu, tiêu chuẩn tuyển chọn đối tượng, chỉ tiêu
chính của nghiên cứu, chỉ tiêu phụ, cách đo lường, phương pháp phân tích dữ kiện
...
Trong các nghiên cứu khác, tác giả
có thể tự mình sáng tạo ra những tiêu đề thích hợp với công trình nghiên cứu.
Ngay cả nếu tác giả sau này phải xóa bỏ các tiêu đề này thì sự bố cục của
chúng giúp ích cho tác giả rất nhiều. Có thể dùngmột biểu đồ như là một
cách mô tả qui trình nghiên cứu (chẳng hạn như thiết kế, tuyển chọn bệnh nhân,
và phân tích dữ kiện). Nếu cần, tác giả có thể thêm phần phụ lục để cung
cấp chi tiết về phương pháp phân tích, mã (codes) dùng trong máy tính, hay
phương pháp thu thập dữ kiện cùng phương pháp đo lường (đây là những phương
pháp có thể giúp cho người duyệt bài hay người đọc có thể lặp lại thử nghiệm).
Kết quả (Results)
Phần kết quả phải được viết một
cách ngắn gọn và đi thẳng vào vấn đề nêu ra trong phần dẫn nhập. Tác giả
phải trả lời cho được câu hỏi “Đã phát hiện gì?” Cần phải phân biệt rõ đâu là kết
quả chính và đâu là kết quả phụ. Phần kết quả phải có biểu đồ và bảng số
liệu, và những dữ kiện này phải được diễn giải một cách ngắn gọn trong văn bản.
Những số liệu này phải trình bày sao cho lần lượt trả lời các mục đích mà tác
giả đã nêu ra trong phần dẫn nhập.
Tất cả các bảng thống kê, biểu đồ,
và hình ảnh phải được chú thích rõ ràng; tất cả những kí hiệu phải được đánh vần
hay chú giải một cách cụ thể để người đọc có thể hiểu được ý nghĩa của những dữ
kiện này. Trong phần kết quả, tác giả chỉ trình bày sự thật và chỉ sự thật
(facts), kể cả những sự thật mà nhà nghiên cứu không tiên đoán trước được hay
những kết quả “tiêu cực” (ngược lại với điều mình mong đợi). Trong phần kết quả,
tác giả không nên bình luận hay diễn dịch những kết quả này cao hay thấp, xấu
hay tốt, v.v.. vì những nhận xét này sẽ được đề cập đến trong phần thảo
luận (Discussion).
Thảo luận (Discussion)
Đối với phần lớn nhà nghiên cứu,
đây là phần khó viết nhất vì nó không có một cấu trúc cố định nào cả. Nói
một cách ngắn gọn,
trong phần này, tác giả phải trả
lời câu hỏi “Những phát hiện này có nghĩa gì?”. Tuy không phải theo cấu
trúc cố định nào, tác giả có kinh nghiệm thường viết thảo luận theo một cấu
trúc như sau: (a) giải thích những dữ kiện trong phần kết quả; (b) so sánh những
kết quả này với các nghiên cứu trước; (c) bàn về ý nghĩa của những kết quả; (d)
chỉ ra những ưu điểm và khuyết điểm của cuộc nghiên cứu; (e) và sau cùng là một
kết luận sao cho người đọc có thể lĩnh hội được một cách dễ dàng.
Trong phần thảo luận, tác giả phải
giải thích, hay đề nghị một mô hình giải thích, tại sao những dữ kiện thu thập
được có xu hướng đã quan sát trong cuộc nghiên cứu. Nếu không giải thích
được thì nhà nghiên cứu phải thành thật nói y như thế: không biết. Tác giả
còn phải so sánh với kết quả của những nghiên cứu trước và giải thích tại sao
chúng (những kết quả) khác nhau, hay tại sao chúng lại giống nhau, và ý nghĩa của
chúng là gì. Ngoài ra, nhà nghiên cứu còn phải có trách nhiệm tự mình vạch
ra những thiếu sót, những trắc trở, khó khăn trong cuộc nghiên cứu, cùng những
ưu điểm của cuộc nghiên cứu, cũng như đưa ra các giải pháp khắc phục hay những
đề xuất hướng nghiên cứu trong tương lai. Sơ đồ 2 sau đây có thể
dùng để làm dàn bài để viết phần thảo luận.
Sơ đồ 2. Khung bài cho phần
thảo luận
Câu hỏi cần phải trả lời
|
Nội dung
|
Phát hiện chính là gì?
|
Phát biểu những phát hiện
chính; đặt những phát hiện này vào bối cảnh của các nghiên cứu trước đây.
|
Phát hiện đó có khả năng sai lầm
không ?
|
Xem xét những yếu tố sau đây:
thiếu khách quan trong đo lường và thu thập số liệu? Số lượng đối tượng ít?
Cách chọn mẫu có vấn đề? Các yếu tố khác chưa xem xét đến? Phân tích chưa đầy
đủ? Chưa điều chỉnh cho các yếu tố phụ? V.v…
|
Ý nghĩa của phát hiện là gì?
|
Đặt kết quả của nghiên cứu vào
bối cảnh lớn hơn, và so sánh với các nghiên cứu trước đây. Suy luận về
cơ chế (nhưng không nên quá lời hay quá xa xỉ trong khi suy luận, mà phải nằm
trong khuôn khổ của dữ kiện thật).
|
Kết luận có phù hợp với dữ kiện
hay không?
|
Kết luận phải rõ ràng, nhưng
không nên đi ra ngoài khuôn khổ của dữ kiện. Chẳng hạn như nếu kết quả
cho thấy hút thuốc lá làm tăng ung thư phổi, tác giả không nên kết luận rằng
ngưng hút thuốc lá sẽ giảm ung thư phổi.
|
Hỗ trợ từ đồng nghiệp
Những bài báo khoa học có giá trị
thường là những bài báo đã được xem xét và duyệt đi duyệt lại nhiều lần, kể cả
những lần phản hồi (response) hay phản biện lại những phê bình của những người
bình duyệt. Điều này đòi hỏi bài báo, trước khi gửi đi cho một tập san,
phải được các đồng nghiệp nội bộ đọc và phê bình. Tác giả không nên ngần
ngại tiếp nhận những phê bình gay gắt từ đồng nghiệp. Để làm việc này,
tác giả cần phải có một danh sách những đồng nghiệp có thể duyệt bài. Những
đồng nghiệp này không hẳn phải là những tên tuổi lớn như giáo sư, mà có thể là
nghiên cứu sinh. Thật ra, các giáo sư ít khi nào có thì giờ đọc kĩ; chính
các nghiên cứu sinh hay đồng nghiệp cấp thấp thường là những người có khả năng
và có thì giờ chăm chú, có động cơ để cho ý kiến một cách nghiêm chỉnh.
Có hai nhóm đồng nghiệp có thể làm người duyệt bài nội bộ:
* Những người bình duyệt
chung, nhiệm vụ chính của họ là xem xét cách viết của tác giả có dễ hiểu hay
không. Bất cứ ai, kể cả những người không cùng chuyên môn, cũng có thể là
người duyệt bài trong nhóm này, nhưng người duyệt bài lí tưởng nhất là người có
nỗ lực suy nghĩ cẩn thận.
* Những người bình duyệt có
cùng chuyên môn, nhiệm vụ của họ là giúp tác giả chuẩn bị để đối phó với những
người bình duyệt của tập san và ban biên tập. Trong nhóm này, tác giả cần
một hay hai thành viên trong cùng chuyên môn và có khả năng “soi mói” chi tiết
hay nêu ra những sai sót của bài báo hay công trình nghiên cứu (chẳng hạn như
nghiên cứu có đúng phương pháp không, diễn dịch có logic không, kết luận có đi
ra ngoài dữ kiện không …). Trong nhóm này, người duyệt lí tưởng là một
người "khó tính " sẵn sàng nói thẳng với tác giả những gì họ nghĩ, thậm
chí không mấy có cảm tình với ý tưởng của tác giả.
Cải tiến
Muốn trở thành một tác giả khoa học
tốt cần phải có thời gian. Một bài báo khoa học thường nhắm vào một vấn đề
hẹp. Nhưng tác giả phải có một cái nhìn rộng và lớn hơn khi đọc bài báo của
mình. Cần phải đặt bài báo và kết quả nghiên cứu vào một bối cảnh lớn hơn
để thấy thành quả ra sao hay những gì cần phải làm tiếp trong tương lai.
Sơ đồ 3 sau đây phác thảo
vài cách tiếp cận để tác giả có thể tự mình cải tiến. Nhiều tác giả thiếu
kiên nhẫn vì họ chỉ muốn gửi bài báo đi càng sớm càng tốt, nhưng đó không phải
là một hành động có hiệu quả cao. Do đó, điều thứ nhất là không nên hấp tấp
trong khi viết. Sau khi viết xong bản thảo, có thể để đó vài ngày hay vài
tuần. Sau đó, đọc lại và xem xét những chi tiết nào cần thêm hay cần bỏ
đi. Đọc đi đọc lại với một cái nhìn mới để xem có gì cần phải phân tích
thêm hay không, hay cách diễn dịch số liệu có hợp lí hay không. Kiểm tra
lại cách viết và các đoạn văn có ăn khớp với nhau hay không, ý tưởng có trôi chảy
hay không ...
Sau đó là xem xét đến những chi
tiết. Hai điểm quan trọng cần phải để ý ở đây. Thứ nhất, kiểm tra
tính nhất quán: cả số liệu hay dữ kiện và các chú thích phải nhất quán với văn
bản, bảng thống kê, và biểu đồ. Thứ hai là loại bỏ những “nhiễu” —
tức là những điểm lặp đi lặp lại hay những điểm làm cho người đọc sao lãng cái
thông điệp chính trong bài báo. Có khi cần phải kiểm tra từng chữ một xem
nó có thích hợp với mục đích của bài báo hay không. Tránh dùng những từ
ngữ tối nghĩa, những biệt ngữ khó hiểu, hay những viết tắt mà người ngoài
chuyên môn chưa quen biết.
Một bài báo thường phải qua bình
duyệt từ ban biên tập của tập san. Nếu tập san cho tác giả cơ hội trả lời
những phê bình này, đó là một bước tiến tích cực. Tuy nhiên, việc trả lời
những phê bình của ban biên tập không phải lúc nào cũng là việc làm thoải mái,
dù sau khi phản biện thì bài báo sẽ tốt hơn. Trong khi trả lời phê bình,
điều tối quan trọng là không nên có thái độ quá chống chế, hay quá công kích
người phê bình. Tác giả có nhiệm vụ phải trả lời từng câu hỏi một, từng
điểm phê bình một, và trả lời một cách lịch sự. Nếu tác giả không đồng ý
với người bình duyệt, tác giả có quyền nói thẳng. Thông thường, sau khi
trả lời bình duyệt, bài báo phải có sửa đổi, và tác giả phải thông báo cho ban
biên tập biết những chỗ nào đã thay đổi và tại sao thay đổi.
Khoa học là một trường hoạt động
khá bình đẳng. Công trình của tác giả có người khác bình duyệt, và tác giả
cũng có cơ hội bình duyệt công trình của người khác. Thành ra, để giúp đỡ
đồng nghiệp và để tự mình cải tiến, tác giả nên nhận lời bình duyệt công trình
nghiên cứu của các đồng nghiệp. Nếu tác giả cảm thấy học hỏi được một vài
điều từ việc trả lời phê bình của người khác, tác giả cũng có thể học hỏi nhiều
điều từ việc đọc và phê bình công trình của đồng nghiệp. Qua đọc và xem
xét cẩn thận, tác giả sẽ cảm thấy mình trưởng thành và thoải mái với các nguyên
lí và sự sắp xếp của các lí giải trong một bài báo khoa học. Làm người
bình duyệt là một hình thức tự mình trao dồi kĩ năng nghiên cứu: nhận dạng nhầm
lẫn của người khác cũng có nghĩa là nâng cao kĩ năng nhận dạng nhầm lẫn của
chính mình.
Ai trong chúng ta cũng muốn là
tác giả của những bài báo khoa học tốt, những bài báo mà chúng ta có thể tự
hào, và hi vọng sẽ được lưu truyền rất lâu trong tương lai. Tuy nhiên, dù
chúng ta có cẩn thận cách mấy, và bất kể bao nhiêu lần chúng ta đọc đi đọc lại,
rà soát, xác suất bài báo có ít nhất là một sai lầm hay lỗi nhỏ đều rất
cao. Một cá nhân rất khó mà phát hiện tất cả các lỗi lầm của chính
mình. Điều đó có nghĩa là tác giả cần đồng nghiệp, những người đọc và phê
bình một cách nghiêm túc và thành thật. Tác giả cần phải bỏ tính tự ái,
và không nên sợ hãi trước những phê phán. Theo kinh nghiệm của người viết
bài này, những phê phán của đồng nghiệp, dù lớn hay nhỏ, dù gay gắt hay thân
thiện, lúc nào cũng giúp cho bài báo trở nên hoàn hảo hơn.
Ở phần đầu tôi đã nêu ra vài lí
do tại sao cần phải công bố báo cáo khoa học trên các diễn đàn khoa học quốc tế,
ở đây tôi muốn nói thêm một lí do quan trọng hơn nữa. Đối với quốc gia,
công bố báo cáo khoa học trên các diễn đàn khoa học quốc tế là một cách không
chỉ nâng cao sự hiện diện, mà còn nâng cao năng suất khoa học, của nước
ta. Ở phương Tây người ta thường đếm số lượng bài báo khoa học mà các nhà
khoa học công bố trên các tập chí khoa học để đo lường và so sánh hiệu suất
khoa học giữa các quốc gia. Hiện nay, trong bất cứ lĩnh vực nào, phải
nhìn nhận một thực tế là hiệu suất khoa của nước ta chưa cao. Phần lớn
các công trình nghiên cứu tại nước ta chỉ được kết thúc bằng những buổi nghiệm
thu hay luận án. Đối với hoạt động khoa học, cho dù công trình đã được nghiệm
thu hay đưa vào luận án, nếu chưa được công bố trên các diễn đàn khoa học quốc
tế thì công trình đó coi như chưa hoàn tất, bởi vì nó chưa qua “thử lửa” với
môi trường rộng lớn hơn.
Để kết thúc bài viết này, tôi xin
mượn một câu nói của một người thông thái, Khổng Tử: “Nếu dùng ngôn ngữ không
đúng, thì những gì được phát biểu sẽ bị hiểu sai; nếu những gì phát biểu bị hiểu
sai, thì những gì cần phải làm sẽ không thực hiện được; và những gì không thực
hiện được, đạo đức và nghệ thuật sẽ trở nên tồi tệ hơn.” Và tôi cũng có
thể thêm rằng, nước nhà sẽ thiệt thòi hơn.
Sơ đồ 3. Cải tiến
Cách tiếp cận căn bản
|
Chú thích
|
Cải tiến bài báo: Không hấp tấp;
đọc và sửa lại liên tục.
|
Cần phải để dành thời gian, suy
nghĩ lại, lĩnh hội vấn đề, đọc lại một lần nữa với một cách nhìn hoàn toàn mới
Xem xét lại cấu trúc bài báo;
xem có phần nào thiếu nhất quán hay không; có mâu thuẫn trong lí giải hay
không; xóa bỏ những phần lặp đi lặp lại.
|
Trả lời những phê bình của người
duyệt bài
|
Trả lời từng điểm một, tuyệt đối
không chối bỏ bất cứ điểm nào;
Phải lịch sự trong khi trả lời,
không dùng những từ mang tính thách thức và tấn công cá nhân; nếu cần bất đồng
ý kiến với người duyệt bài, cứ nói thẳng như thế;
Thông báo cho biên tạp biết những
gì đã thay đổi trong bài báo và giải thích tại sao phải thay đổi.
|
Cải tiến kĩ năng phê bình công
trình của người khác
|
Sẵn sàng phục vụ làm người bình
duyệt bài cho các tập san khoa học;
Công bằng và vô tư trong việc
phê bình;
Không duyệt bài nếu cảm thấy
mình có mâu thuẫn quyền lợi cá nhân.
|
Những điểm chính
Nên bắt đầu viết sớm trước khi
hoàn tất công trình nghiên cứu.
Tập trung vào những gì mà người đọc
cần đọc: tựa đề, tóm tắt, biểu đồ, bảng số liệu.
Phát thảo một cách tiếp cận có hệ
thống: dẫn nhập, phương pháp, kết quả, và thảo luận.
Cải tiến bài báo bằng cách yêu cầu
giúp đỡ từ đồng nghiệp.
0 Comments:
Bài đăng Mới hơn Bài đăng Cũ hơn Trang chủ
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)