HUỆ KHẢI
(Dũ Lan LÊ ANH DŨNG)

COCHINCHINA
AS A CULTURAL PRECONDITION
FOR THE FOUNDATION OF CAODAISM
NXB TAM GIÁO ĐỒNG NGUYÊN – 2009
HUỆ KHẢI Lê Anh Dũng giữ bản quyền © All rights reserved - 2009

ĐẤT NAM KỲ TIỀN ĐỀ VĂN HÓA MỞ ĐẠO CAO ĐÀI
(Cochinchina as a cultural precondition for the foundation
of Caodaism – in lần thứ hai) • NGÔ VĂN CHIÊU – NGƯỜI
MÔN ĐỆ CAO ĐÀI ĐẦU TIÊN (Ngô Văn Chiêu – the first
Caodai disciple) • LUẬT NHÂN QUẢ THEO GIÁO LÝ CAO
ĐÀI • LÒNG CON TIN ĐẤNG CAO ĐÀI • ĐẤT NAM KỲ TIỀN
ĐỀ PHÁP LÝ MỞ ĐẠO CAO ĐÀI (Cochinchina as a legal
precondition for the foundation of Caodaism) • KINH CỨU
KHỔ TRONG ĐẠO CAO ĐÀI •NHỚ ĐẠT LINH (chủ biên). Mục lục / Contents
ĐẤT NAM KỲ
TIỀN ĐỀ VĂN HÓA MỞ ĐẠO CAO ĐÀI
Trang / Page 5
COCHINCHINA
AS A CULTURAL PRECONDITION
FOR THE FOUNDATION OF CAODAISM
Trang / Page 55
MINH HỌA / ILLUSTRATIONS
Trang / Page 50
THƯ TỊCH / BIBLIOGRAPHY
Trang / Page 47
Tri ân
Chuyên khảo này nguyên là bài nói chuyện tại Cơ
quan Phổ thông Giáo lý Đại đạo vào ngày 08-11-1999
(01-10 Kỷ Mão). Sau đó, một phần nội dung chủ yếu đã
lần lượt đăng trên tạp chí Nghiên cứu và Phát triển
(Huế, hai số quý 2 và quý 3-2004), và tạp chí Văn hóa
Nghệ thuật (Hà Nội, hai số tháng 9 và tháng 10-2004).
Bản dịch tiếng Anh in kèm theo chuyên khảo này sẽ
không thể gởi đến quý bạn đọc nếu như tôi thiếu sự trợ
giúp rất quý hóa của bào đệ Lê Anh Minh và hiền
huynh Lê Quang Minh. Thật vậy, bào đệ Anh Minh đã
miệt mài cộng tác cùng tôi trong việc chuyển ngữ. Với
kinh nghiệm của một giảng viên tiếng Anh, hiền huynh
Quang Minh đã dành nhiều thời gian đọc kỹ lại bản dịch
và nhuận sắc rất công phu. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn
sâu sắc đối với cả hai vị. Sau cùng, tôi xin cảm ơn tất cả
các tác giả có tác phẩm được trích dẫn trong chuyên
khảo này. Các thông tin khả tín của các vị ấy đã giúp bài
viết của tôi được phong phú thêm rất nhiều.
Huệ Khải
Tháng 01-2008 Huệ Khải 5
ĐẤT NAM KỲ
TIỀN ĐỀ VĂN HÓA
MỞ ĐẠO CAO ĐÀI
I. LỜI MỞ
Trong chuyên khảo Peasant politics and religious
sectarianism: Peasant and priest in the Cao Dai in Viet
Nam (Chính trị nông dân và giáo phái: Nông dân và
thầy tu trong đạo Cao Đài ở Việt Nam), Jayne Susan
Werner viết: “Đạo Cao Đài được thành lập ở Sài Gòn
năm 1925 (...). Không lâu sau khi thành lập, tôn giáo
mới này đã có được đông đảo tín đồ ở khắp cả Nam
Kỳ.”
(1)
Căn cứ theo “Số ước lượng tín đồ Cao Đài do Thống
đốc Nam Kỳ cho biết, trong một báo cáo gởi Toàn
quyền Đông Dương ngày 14-12-1934. Hồ sơ riêng của
Thống đốc Pagès”
(2)
 Werner viết: “Vào khoảng năm
1930, có từ năm trăm ngàn tới một triệu nông dân theo
Đạo, trong lúc tổng số dân là từ bốn tới bốn triệu
rưỡi.”
(3)
Con số nửa triệu hay một triệu tín đồ như dẫn trên
trong thực tế đã từng gây ra nhiều tranh luận. Như một
1
 [Werner 1981: 4]. Lưu ý – Cước chú này cho biết đoạn trích dẫn
trên đây mượn trong một quyển sách của Werner xuất bản năm
1981, trang 4. Về chi tiết của nguồn tài liệu, xin xem “Thư tịch”
ở cuối chuyên khảo này (tr. 50).
2
 [Werner 1981: 72].
3
 [Werner 1981: 4].
6 Đất Nam Kỳ - Tiền đề văn hóa mở đạo Cao Đài
tổng kết sơ bộ, Victor L. Oliver viết:
“Số liệu thống kê về sự phát triển của đạo Cao Đài
trong những năm đầu tiên thì lộn xộn và không đáng tin
cậy. Nguyễn Văn Tâm nói rằng Đạo có được gần 30.000
người nhập môn trong sáu tháng. Cho tới tháng 10-
1926 số tín đồ đã tăng lên 50.000 người.
(4)
Vốn hay
công kích đạo Cao Đài, Duncanson nói bóng gió rằng
ông Lê Văn Trung là người hợp đồng thuê nhân công
nên đủ sức huy động 50.000 người có mặt tại lễ Khai
minh Đại đạo. Duncanson ám chỉ rằng những thành
viên ấy phải được coi là những ‘tín đồ’ khả nghi.
(5)
Trong năm 1928 ông Lê Văn Trung khẳng định có trên
một triệu tín đồ. Cùng năm này, nhật báo L’Opinion
công bố con số 700.000 người. Bác bỏ con số này, trên
báo La Presse indochinoise Maurice Monribot viết rằng
chỉ có chừng 200.000 tín đồ mà thôi.
(6)
“Nguyễn Trần Huân viết rằng cho tới năm 1931 đạo
Cao Đài có khoảng 500.000 tín đồ.
(7)
Các cây bút khác
đã bất đồng với nhau về con số ước tính này. Chẳng
hạn, Ellen J. Hammer tin rằng đạo Cao Đài cho tới năm
1930 đã có trên một triệu tín đồ;
(8)
 Meillon trong Les
Messages spirites nói rằng cho tới năm 1930 số tín đồ
Cao Đài chiếm khoảng một phần tám (500.000) tổng số
dân miền Nam;
(9)
 G. Abadie viết rằng vào năm 1932, số
tín đồ Cao Đài ở Nam Kỳ lên tới con số ‘hơn một triệu
4
 [Nguyễn Văn Tâm 1949: 4-5].
5
 [Duncanson 1968: 125-126].
6
 [Smith 1970: 341].
7
 [Nguyễn Trần Huân 1958: 273].
8
 [Hammer 1954: 79].
9
 [Meillon 1962: 14]. Huệ Khải 7
người trong lúc số dân là ba triệu rưỡi.’
(10)
“Bất đồng quan điểm về sức mạnh thực sự của đạo
Cao Đài thể hiện bằng số lượng tín đồ từ năm 1925 đến
năm 1932 dường như cho thấy về phía một số người đã
có thái độ miễn cưỡng không muốn thừa nhận sự thành
công của đạo Cao Đài. Về phía khác, những tuyên bố
cường điệu của những người khác gợi cho thấy một tư
thế phòng vệ khi đối diện với sự công kích. Những số
ước tính được thổi phồng này là một cố gắng nhằm
cường điệu mạnh hơn nữa sự thành công của đạo Cao
Đài và nhằm cải thiện hình ảnh của tôn giáo này đối với
công chúng.”
(11)
Sau khi biện giải như thế, Victor L. Oliver khẳng
định: “Tác giả tin rằng vào năm 1930 số tín đồ Cao Đài
(gồm cả người lớn và trẻ em) ước tính dè dặt là 500.000
người. Trong bất kỳ trường hợp nào, thậm chí với
những con số ước tính khiêm tốn nhất chăng nữa, sự
phát triển mau lẹ của đạo Cao Đài trong những năm
đầu tiên vẫn có ý nghĩa quan trọng.”
(12)
Cùng quan điểm với Oliver, khi chấp nhận số lượng
tín đồ từ nửa tới một triệu vào năm 1930, Werner khẳng
định rằng: “Đạo Cao Đài là phong trào quần chúng
rộng lớn xuất hiện đầu tiên ở Nam Kỳ...”
(13)
Tại sao đạo Cao Đài lại ra đời ở Nam Kỳ và lớn
mạnh mau lẹ ở Nam Kỳ vào đầu thế kỷ 20 chứ không
phải là một miền đất khác, và vào một thời gian khác?
Có thể nêu ra một trong nhiều yếu tố giúp giải đáp câu
10
 [Gobron 1950: 103].
11
 [Oliver 1976: 41-42].
12
[Oliver 1976: 42].
13
 [Werner 1981: 15].
8 Đất Nam Kỳ - Tiền đề văn hóa mở đạo Cao Đài
hỏi trên, đó là: Nam Kỳ có đủ một tiền đề văn hóa thích
hợp để mở đạo Cao Đài.
Theo Thạch Phương, đặc tính văn hóa nổi trội của
Nam Kỳ là: cởi mở trong giao lưu, nhạy bén với cái
mới; thấm nhuần một tinh thần dân chủ, bình đẳng;
nhân nghĩa, bao dung; không chịu gò bó trong những
khuôn mẫu phong kiến cứng ngắc.
(14)
 Vậy, phải chăng
những đặc tính đó đã khiến cho người Nam Kỳ sớm dễ
dàng chấp nhận được đạo Cao Đài, cho dù tôn giáo mới
này có nhiều khác lạ hơn các tôn giáo sẵn có từ xưa?
Ngoài ra, những điều kiện thiên nhiên đặc thù của
Nam Kỳ không thể không tác động và để lại dấu ấn đậm
nét trong đời sống vật chất, tinh thần và tâm linh của
người dân Nam Kỳ. Trần Thị Thu Lương và Võ Thành
Phương thấy rằng: “Trong bối cảnh mà những tôn giáo
lớn của thế giới không có điều kiện để gây ảnh hưởng
mạnh thì mảnh đất Nam Bộ [Nam Kỳ] thế kỷ 18-19
(thậm chí là cả khi sang thế kỷ 20) là nơi thuận lợi cho
các tôn giáo địa phương có điều kiện nảy sinh...”
(15)
Do đó, khi khảo sát sự ra đời và phát triển của đạo
Cao Đài ở Nam Kỳ, cũng cần quan tâm tìm hiểu bối
cảnh đất nước, con người đã sinh thành và dưỡng nuôi
đạo Cao Đài, một tôn giáo có nguồn gốc bản địa nhưng
từ khi mới hình thành đã sớm đặt lý tưởng phổ độ toàn
cầu.
*
14
 [Thạch Phương 1992: 249, 253, 254, 258].
15
 [Trần Thị Thu Lương 1991: 42]. Huệ Khải 9
Nhan đề chuyên khảo này nói tới địa danh Nam Kỳ.
Sao lại là Nam Kỳ thay vì Nam Bộ hay một cái tên nào
khác?
Khảo sát lịch sử ra đời những tên gọi cho miền đất
phương Nam của Tổ quốc, có thể xác định năm 1834
(đời vua Minh Mạng) địa danh Nam Kỳ bắt đầu xuất
hiện, theo nghĩa Kỳ 圻 là một cõi đất; Nam Kỳ là cõi
đất phương Nam. Mãi đến tháng 5-1945, sau khi phát
xít Nhật lật đổ thực dân Pháp (09-3) báo chí mới bắt đầu
dùng tên gọi Nam Bộ thay cho Nam Kỳ,
(16)
 theo nghĩa
Bộ 部 là một phần; Nam Bộ là một phần đất nước ở
phía Nam.
(17)
Đạo Cao Đài chính thức ra đời năm 1926, khi ấy cái
tên Nam Bộ chưa hề có. Như thế, danh xưng Nam Kỳ
trong chuyên khảo này hoàn toàn hợp lý.
(18)
Ở đây tên
gọi Nam Kỳ được tạm hiểu là cái tên mang tính văn hóa,
nó liên hệ thời gian từ những năm 20 của thế kỷ 20 (khi
đạo Cao Đài ra đời) trở ngược về thế kỷ 17 (thời Nam
tiến khẩn hoang, phá rừng dựng nước của các thế hệ lưu
dân triều Nguyễn) chứ không chỉ hạn định từ năm 1834
trở đi, khi danh xưng Nam Kỳ Lục Tỉnh chính thức đi
vào lịch sử dân tộc.
*
16
 [Bằng Giang 1992: 11, 14].
17
 [Bằng Giang 1992: 11, 14].
18
 Tên gọi Nam Kỳ nơi đây không liên quan tới giai đoạn lịch sử
ngắn ngủi từ 01-6-1946 đến 19-5-1948, là lúc thực dân Pháp
dựng lên một chánh quyền bù nhìn. Trong chuyên khảo này, tôi
chủ ý ghi thêm [Nam Kỳ] sau cái tên Nam Bộ trong nguyên văn
một số tác giả được trích dẫn.
10 Đất Nam Kỳ - Tiền đề văn hóa mở đạo Cao Đài
Trên đây nói rằng Nam Kỳ là cái tên mang tính văn
hóa nhằm tách nó ra khỏi những ý nghĩa về chính trị và
lịch sử. Còn từ văn hóa trong cụm từ tiền đề văn hóa
của nhan đề được dùng theo ý nghĩa nào?
Tôi muốn hiểu nó theo ý nghĩa đã được cộng đồng
quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các
chính sách văn hóa họp năm 1970 tại Venice, mà
Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO, nhắc lại như
sau: “... văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân
tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh
vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập
quán, lối sống và lao động.”
(19)
Theo ý nghĩa đó, tiền đề văn hóa được hiểu là tất cả
những điều kiện cần thiết có trước về văn hóa để cho
đạo Cao Đài khi mới xuất hiện chẳng những vừa phù
hợp với nếp sống, phong tục tập quán, tín ngưỡng người
dân Nam Kỳ mà lại vừa có sắc thái khác hơn các hình
thức tín ngưỡng sẵn có tại Nam Kỳ, cái nôi của nền tôn
giáo mới này.
*
Khi thấy rằng tiền đề văn hóa đó là cái riêng (đặc thù)
của phương Nam thì, nói như Sơn Nam, cũng sẽ “hiểu
thêm tại sao miền Nam có vài sắc thái tôn giáo mà
ngoài Bắc ngoài Trung không có...”
(20)
Bởi lẽ, như Đinh
Văn Hạnh đã nhìn thấy, ở Nam Kỳ vốn có sẵn “những
tiền đề sâu xa đưa đến những đặc điểm về đời sống văn
19
http://www.findarticles.com/p/articles/mi_m1310/is_1989_Nov/ai_8171031/pg
_2.
20
 [Sơn Nam 1971: VII]. Huệ Khải 11
hóa tinh thần và tâm linh của người Việt” trên miền đất
này.
(21)
Bước đầu tìm hiểu tiền đề văn hóa mở đạo Cao Đài ở
Nam Kỳ, chuyên khảo này chỉ mới tạm xét đến năm
khía cạnh sau:
i. Tính mở của địa lý thiên nhiên Nam Kỳ;
ii. Tính mở và động của làng Nam Kỳ;
iii. Tính đa dân tộc và đa tín ngưỡng của đất Nam
Kỳ;
iv. Cá tính người Nam Kỳ; và
v. Nhu cầu tâm linh người Nam Kỳ.
Trình bày năm khía cạnh trên, tôi thử chắt lọc, vận
dụng, khai thác kết quả các công trình nghiên cứu đã
công bố của các nhà khoa học xã hội trong và ngoài
nước. Các tác giả ấy đều ở ngoài cộng đồng Cao Đài và
vì thế những ý kiến của họ đúc kết nơi đây sẽ giúp hiểu
thêm một cách khách quan về sự ra đời của đạo Cao Đài
ở Nam Kỳ vào đầu thế kỷ 20.
Nói cách khác, theo nguyên tắc “thuật nhi bất tác”
của Khổng Tử, tôi mong sao mấy lý lẽ trình bày trong
chuyên khảo này có thể thoát ra ngoài tư ý và định kiến
chủ quan để may ra góp được phần nào nhận thức về
tiền đề văn hóa của việc mở đạo Cao Đài, một tôn giáo
trẻ đã thực sự hiện diện trong đời sống tâm linh dân tộc
qua hơn ba phần tư thế kỷ.
21
 [Đinh Văn Hạnh 1999: 30].
12 Đất Nam Kỳ - Tiền đề văn hóa mở đạo Cao Đài
II. TÍNH MỞ
CỦA ĐỊA LÝ THIÊN NHIÊN NAM KỲ
Nam Kỳ gồm miền Đông Nam Kỳ rộng 27.920km
2
và miền đồng bằng châu thổ sông Cửu Long rộng
39.950km
2
, hình thành hai vùng thiên nhiên rõ rệt. Với
diện tích 67.870km
2
, Nam Kỳ là châu thổ lớn nhất của
vùng Đông Nam Á và là đồng bằng lớn nhất của Việt
Nam.
(22)
Ở vào vị trí trung tâm của Đông Nam Á, Nam
Kỳ từ lâu đã được xem là “địa bàn thuận tiện nhất trong
việc nối liền và giao lưu mọi mặt với các nước láng
giềng trong khu vực”.
(23)
1. VỊ TRÍ MỞ CỦA NAM KỲ
TRONG KHU VỰC ĐÔNG NAM Á
Có người xem Nam Kỳ là vị trí ngã tư đường của các
cư dân và các nền văn hóa, văn minh.
(24)
 Do đó Nam Kỳ
đã sớm là vị trí hội tụ các luồng văn hóa Đông Tây, một
giao điểm động, thoáng, và mở.
(25)
 Tinh thần bao dung
tôn giáo ở Nam Kỳ cũng là đặc điểm chung của các tôn
giáo ở Đông Nam Á, chấp nhận cùng hiện hữu, không
kỳ thị và không có xung đột, chiến tranh tôn giáo.
(26)
2. HỆ THỐNG SÔNG NƯỚC NAM KỲ LÀ ƯU
THẾ MỞ ĐỂ NỐI LIỀN VĂN HÓA ĐÔNG TÂY
Sông ngòi, kênh rạch của Nam Kỳ nhiều và chằng
chịt. Có sách cho rằng tổng số chiều dài sông và kênh
22
 [Huỳnh Lứa 1987: 17, 19].
23
 [Đinh Văn Hạnh 1999: 12].
24
 [Đinh Văn Hạnh 1999: 13].
25
 [Đinh Văn Hạnh 1999: 13].
26
 [Đinh Văn Hạnh 1999: 308]. Huệ Khải 13
rạch lớn lên tới trên 5.000km.
(27)
Đồng bằng sông Cửu Long hai mặt giáp biển. Trên
cùng một châu thổ có những con sông chảy ngược chiều
nhau: có sông đổ ra biển Đông, có sông đổ ra vịnh Thái
Lan ở phía Tây. Hơn nữa, những con sông đó lại được
các con kênh nối với nhau, như thể nối nước chảy về
bên Đông với nước chảy về bên Tây.
(28)
Tại đồng bằng miền Tây Nam Kỳ, theo Vũ Tự Lập,
“Ngoài hệ thống Cửu Long, (...) còn rất nhiều sông nhỏ
và kênh đào. Ở phía Tây Nam châu thổ, các sông ngòi
nối với nhau chằng chịt và chảy ra cả biển Đông và
vịnh Thái Lan do chịu ảnh hưởng mạnh của thủy triều.
Theo nhịp điệu thủy triều, khi thì nước chảy từ Đông
sang Tây, khi thì chảy ngược lại, giao thông thủy thật
tiện lợi.”
(29)
Đinh Văn Hạnh cho rằng đặc trưng độc đáo này của
sông nước Nam Kỳ là một “ưu thế nổi trội (...) khiến
cho vùng đất này như ‘mở được mọi cửa’ để tiếp cận
với xung quanh”.
(30)
• Tóm lại, từ những ý kiến trên đây, có thể rút ra điều
gì?
(31)
Đất Nam Kỳ ở vào vị trí mở trong khu vực Đông
Nam Á, và có hệ thống sông nước mang tính mở và nối
kết Đông Tây. Với hai đặc điểm như thế, cuộc đất ấy sẽ
sản sinh ra những tâm hồn mở, thoáng với xu hướng
27
 [KHXH 1982: 54].
28
 [Đinh Văn Hạnh 1999: 14].
29
 [Vũ Tự Lập 1978: 161-162].
30
 [Đinh Văn Hạnh 1999: 14].
31
 Sau khi tổng hợp dữ liệu khách quan của các nhà nghiên cứu
khác, tôi thử rút ra một số nhận định về lý do khai sinh ra đạo
Cao Đài ở Nam Kỳ. Những rút tỉa của tôi được đánh dấu ●.
14 Đất Nam Kỳ - Tiền đề văn hóa mở đạo Cao Đài
tổng hợp Đông Tây. Địa lý Nam Kỳ có thể xem là một
tiền đề thuận lợi cho sự ra đời của đạo Cao Đài – một
tôn giáo “tổng hợp các nền đạo lý theo phương châm kết
tinh kim cổ, dung hòa Đông Tây”.
(32)
III. TÍNH MỞ VÀ ĐỘNG CỦA LÀNG NAM KỲ
1. TÍNH MỞ CỦA LÀNG NAM KỲ
a. Địa hình mở
Theo Huỳnh Lứa, làng ở Nam Kỳ, đặc biệt ở đồng
bằng sông Cửu Long, “thường được hình thành dọc theo
sông rạch. Thôn xóm thường được trải dài theo hai bên
bờ sông, bờ kênh rạch, không có lũy tre bao quanh, nhà
cửa nằm ở giữa vườn cây trái, đằng trước nhà là dòng
nước, nơi ghe thuyền qua lại, phía sau là đồng
ruộng.”
(33)
Một cách tỉ mỉ hơn, Thạch Phương phân chia làng
Nam Kỳ ra bốn dạng quần cư chính:
i. “Phổ biến nhất là loại hình làng xóm thiết lập
dọc theo các tuyến sông rạch; vườn nhà này nối tiếp
vườn nhà khác, hoặc cách quãng bởi ruộng lúa.”
ii. “Khi đường bộ phát triển thì lại xuất hiện loại
hình làng xóm chạy dài theo trục lộ, nhưng thường
thường nhà cửa, vườn tược không liên tục như ở tuyến
sông rạch.”
iii. “Một loại hình làng nữa được thiết lập ở nơi
vàm sông, ở chỗ giáp nước (nơi hai dòng nước do chịu
sự tác động của thủy triều gặp nhau). Những tụ điểm
dân cư này thường có xu hướng phát triển thành thị tứ
32
 [Lê Anh Dũng 1996: 15].
33
 [Thạch Phương 1992: 38]. Huệ Khải 15
(hay thị trấn) vì là nơi tập trung quán xá, cơ sở dịch vụ
sửa chữa, cửa hàng, chành vựa và có khi cả chợ búa.”
iv. Ở miền đông Nam Kỳ: “Làng xóm nằm trên
các đồi, gò, hay trên những giồng đất cao...”
(34)
Làng Nam Kỳ không có lũy tre bao quanh, không tạo
thành một quần thể riêng biệt, không cách bức với các
làng khác như ở Bắc Kỳ.
(35)
Nói về tính mở của làng Nam Kỳ, và so sánh sự
tương phản với làng Bắc Kỳ, đáng lưu ý tới ý kiến của
Trần Đình Hượu, một tác giả miền Bắc. Ông nhìn thấy
mỗi một làng miền Bắc giống như một hòn đảo tách
biệt, có lũy tre bao quanh, với lối độc đạo vào làng, đi
qua một cổng kiên cố bằng gạch, có cánh cửa gỗ lim.
Do đó, làng Bắc Kỳ mang ý nghĩa bố phòng, không thân
thiện, ít hiếu khách.
(36)
 Cũng vậy, trong Nông dân đồng
bằng Bắc Kỳ, P. Gourou nhận xét rằng mỗi làng ở Bắc
Kỳ là một quần thể khép kín, với lũy tre bao bọc quanh
làng, với rào hay tường bao quanh từng nhà.
(37)
b. Thiết chế mở
Ngoài mặt địa hình mở, làng Nam Kỳ còn mang tính
mở về mặt thiết chế.
Giải thích lý do hình thành thiết chế mở ở làng Nam
Kỳ, điều mà làng Trung Kỳ và Bắc Kỳ không có, Thạch
Phương lập luận rằng Nam Kỳ là đất mới do lưu dân
khai phá, “nên làng xóm ở đây có một lịch sử hình thành
và phát triển ngắn hơn làng xóm ở Bắc và Trung. Các
34
 [Thạch Phương 1992: 55].
35
 [Nguyễn Phương Thảo 1994: 10].
36
 [Đinh Văn Hạnh 1999: 301].
37
 [Nguyễn Phương Thảo 1994: 9].
16 Đất Nam Kỳ - Tiền đề văn hóa mở đạo Cao Đài
sinh hoạt của cộng đồng thôn xã cũng lỏng lẻo hơn,
không bị ràng buộc bởi hệ thống quy tắc chặt chẽ và
những nghi thức rườm rà, phiền phức như ở nơi đất
cũ.”
(38)
Làng Nam Kỳ không có hương ước, thần tích, thần
phả
(39)
 cho nên, nói theo Thạch Phương, “kể cả những
làng tương đối lâu đời, thường khá lỏng lẻo về mặt thiết
chế. (...) Dân làng nói chung không bị những quy ước,
những lệ làng ràng buộc, câu thúc chặt chẽ như ở Bắc
và Trung.”
(40)
Đồng quan điểm như trên, Huỳnh Lứa lập luận rằng
làng ở đất mới “chưa bị ràng buộc bởi luật lệ, quy chế
nghiêm ngặt với những lệ làng, hương ước phức tạp. Và
cũng không có sự phân biệt giữa người đã ở lâu với
người mới đến, giữa dân chính gốc và người ngụ cư. Từ
sau khi nhà Nguyễn thiết lập và củng cố bộ máy quản lý
hành chánh, tình hình có thay đổi khác hơn, nhưng nhìn
chung thiết chế làng xã ở đây vẫn lỏng lẻo hơn so với
làng xã ở đồng bằng Bắc Bộ.”
(41)
2. TÍNH ĐỘNG CỦA LÀNG NAM KỲ
Làng Bắc Kỳ hầu hết là làng cổ. Mỗi làng thường có
một truyền thống và dân làng tự hào được bảo thủ cái
truyền thống xưa cũ đó. Làng Bắc Kỳ vì thế thường là
cộng đồng của một số dòng họ. Trái lại, Nam Kỳ là đất
mới, thu hút lưu dân tứ xứ tụ về. Làng Nam Kỳ vì thế
cũng mang tính động, như là một thuộc tính của vùng
đất mới. Tác nhân chủ yếu tạo thành tính động này
38
 [Thạch Phương 1992: 59].
39
 [Đinh Văn Hạnh 1999: 302].
40
 [Thạch Phương 1992: 55].
41
 [Thạch Phương 1992: 38]. Huệ Khải 17
chính là những cuộc di dân.
Sử liệu có một bằng chứng cụ thể về tính động này.
Thực vậy, sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa ở làng An
Định (tỉnh Châu Đốc), để kiểm soát dân làng, năm 1887
Pháp lập thống kê. Kết quả cho thấy 407 gia đình có gốc
gác từ 13 tỉnh khác nhau ở Nam Kỳ, và truy ngược nữa,
thì họ lại từ miền Trung vào.
(42)
Do tính tứ chiếng này mà ở Nam Kỳ hầu như không
có gia phả của dòng họ, và Sơn Nam giải thích: “Về gia
phả gần như không có, người khẩn hoang ở Nam Bộ
[Nam Kỳ] không ghi chép lại để che giấu lý lịch, đề
phòng trường hợp tru di tam tộc, theo luật phong
kiến.”
(43)
Tính động của làng Nam Kỳ về mặt nông nghiệp còn
thấy ở hình thức ruộng phụ canh, điều hầu như hiếm có
ở Bắc Kỳ. Thế nào là ruộng phụ canh? Trần Thị Thu
Lương giải thích: “Ruộng đất phụ canh là loại ruộng
đất có chủ sở hữu không phải là người bản thôn
(xã).”
(44)
Nguyễn Công Bình viết: “Nếu ở đồng bằng sông
Hồng chỉ có đôi làng có ruộng phụ canh của người làng
bên cạnh, thì ở đồng bằng sông Cửu Long phổ biến các
thôn xã có ruộng đất phụ canh, có nhiều hộ có ruộng
phụ canh ở làng khác, xã khác, tổng khác, huyện khác,
thậm chí tỉnh khác. Lại có những hộ có ruộng đất phụ
canh ở nhiều thôn xã khác, tổng khác, huyện khác.”
(45)
Khi khảo sát địa bạ của 92 thôn xã có ruộng đất tư
42
 [Phan Quang 1981: 214].
43
 [Sơn Nam 1993: 31].
44
 [Trần Thị Thu Lương 1995: 177].
45
 [Nguyễn Công Bình 1995: 77].
18 Đất Nam Kỳ - Tiền đề văn hóa mở đạo Cao Đài
nằm rải đều trong 8 tổng thuộc Nam Kỳ Lục Tỉnh ở đầu
thế kỷ 19, Trần Thị Thu Lương phát hiện 76/92 thôn xã
đã có ruộng đất phụ canh. Số chủ phụ canh là 1.159
người, chiếm 24,2% số lượng chủ (4.793 người). Diện
tích phụ canh là 17.635 mẫu 6 sào, chiếm 28,35% diện
tích ruộng tư (62.202 mẫu 3 sào).
(46)
Từ kết quả khảo sát ruộng đất Nam Kỳ thế kỷ 19,
Trần Thị Thu Lương nhận định: “Tình hình phụ canh
ruộng đất ở đây đã thể hiện tính chất mở của nó trên
phương diện giao lưu sở hữu ruộng đất giữa các xã
thôn. Nó đồng thời còn thể hiện tính di động cao của
nông dân Nam Bộ [Nam Kỳ].”
(47)
● Tóm lại, làng Nam Kỳ mang tính mở và tính động.
Đây cũng là tính chất của người Nam Kỳ. Hệ quả tất
nhiên là người Nam Kỳ có đầu óc cởi mở và sẵn sàng
tiếp thu cái mới. Nhờ thế, khi tiếp xúc với cái mới,
người Nam Kỳ dễ dàng bao dung, chấp nhận, rồi tích
cực ủng hộ. Tình cảm, thái độ ứng xử này rất thuận lợi
cho sự ra đời của một tôn giáo mới như đạo Cao Đài.
Thực vậy, thay vì dị ứng với cái mới, người Nam Kỳ
đã mau lẹ, nhiệt thành và đông đảo đi theo một tôn giáo
mới như Cao Đài. Họ đã nhanh chóng tạo thành một
hiện tượng khác thường trong lịch sử, khiến cho về sau
này các học giả phương Tây phải gọi đó là một “làn
sóng”, hay một “phong trào”. Hai từ ngữ này có thể
không thích hợp khi nói tới một tôn giáo, nhưng nó lại
phản ánh được phần nào cái hiện tượng đông đảo tín đồ
Cao Đài nhanh chóng phát triển rộng khắp Nam Kỳ.
46
 [Trần Thị Thu Lương 1995: 178-179].
47
 [Trần Thị Thu Lương 1995: 182]. Huệ Khải 19
IV. TÍNH ĐA DÂN TỘC
VÀ ĐA TÍN NGƯỠNG CỦA ĐẤT NAM KỲ
1. TÍNH ĐA DÂN TỘC
Theo Huỳnh Lứa: “Nam Bộ [Nam Kỳ] nói chung,
vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng, ngay trong
buổi đầu khai phá, đã có nhiều dân tộc sống chung, xen
kẽ với nhau. Đó là một điểm đáng chú ý so với bất cứ
vùng nào trên đất nước Việt Nam.”
(48)
Thực vậy, tính luôn người Việt (còn gọi là người
Kinh), trên toàn lãnh thổ Việt Nam có năm mươi bốn
dân tộc khác nhau. Riêng ở Nam Kỳ, ngoài người Việt
(Kinh) và Hoa (Hán) ra, có bảy dân tộc khác như sau:
Khơ-me (Khmer), Cơ Ho (K’Ho), Chăm (Chàm),
Mnông, Xtiêng (Stieng), Mạ và Chu Ru.
(49)
Dân tộc Việt. Người Việt vào khai phá và định cư ở
Nam Kỳ từ thế kỷ 17. Quá trình di dân liên tục của
người Việt diễn ra đồng thời với chiến tranh TrịnhNguyễn. Cuộc di dân càng ồ ạt khi các chúa Nguyễn thi
hành chính sách Nam tiến.
(50)
Dân tộc Hoa. Cuối thế kỷ 17, theo Huỳnh Lứa, người
Hoa từ các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến,
Triều Châu, Hải Nam đã đến lập nghiệp ở Nam Kỳ (Mỹ
Tho, Biên Hòa, Hà Tiên, đồng bằng sông Cửu Long).
(51)
Dân tộc Khơ-me. Trước thế kỷ 17, theo Đinh Văn
Hạnh, khi chưa có những đợt di cư của người Việt,
người Hoa và người Chăm tới Nam Kỳ thì người Khơ-
48
 [Thạch Phương 1992: 43].
49
 [Trần Văn Giàu 1998: 203].
50
 [Đinh Văn Hạnh 1999: 26].
51
 [Thạch Phương 1992: 28-29].
20 Đất Nam Kỳ - Tiền đề văn hóa mở đạo Cao Đài
me và văn hóa Khơ-me giữ vai trò chủ thể ở miền đất
này.
(52)
Theo Đinh Văn Liên, dân số người Việt, Hoa và
Khơ-me ở Nam Kỳ cuối thế kỷ 19 như sau:
(53)
 VIỆT HOA KHƠ-ME
1862-1888 1.629.224 56.000 151.367
1895 1.967.000 88.000 170.488
Dân tộc Chăm. Vào thế kỷ 17, 18 một số người Chăm
ở miền nam Trung Kỳ đã sang Cao Miên và Xiêm (Thái
Lan), đã tiếp xúc và chịu ảnh hưởng của các nhóm dân
cư gốc Mã Lai và Ấn Độ. Đầu thế kỷ 19, trở về định cư
ở Châu Đốc và một số tỉnh khác ở Nam Kỳ, họ đã mang
theo ít nhiều ảnh hưởng văn hóa của người Miên, Xiêm,
Mã, Ấn.
(54)
 Năm 1880, dân tộc Chăm ở Châu Đốc có
khoảng 13.200 người.
(55)
Các dân tộc khác. Ngoài các dân tộc đã có mặt sẵn ở
Nam Kỳ trước khi người Việt đặt chân tới, còn có các
giống dân từ nước ngoài cũng sớm tìm đến. Sự kiện này
được ghi nhận trong vài tác phẩm viết vào khoảng cuối
thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Chẳng hạn:
– Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức
(1765-1825) ghi nhận điều ấy như sau: “Gia Định là đất
phương nam của nước Việt. Khi mới khai thác, lưu dân
nước ta [Việt] cùng người kiều ngụ như người Đường
[Hoa], người Cao Miên [Khơ-me], người Tây phương,
người Phú-lang-sa [Pháp], người Hồng mao [Anh],
52
 [Đinh Văn Hạnh 1999: 23].
53
 [Mạc Đường 1991: 96].
54
 [Đinh Văn Hạnh 1999: 25].
55
 [Mạc Đường 1991: 284].


Ebook: http://tamgiaodongnguyen.com/Books/DatNamKy-VanHoa.pdf

0 Comments:

Post a Comment



Bài đăng Mới hơn Bài đăng Cũ hơn Trang chủ


Khảo Sử trên Facebook