Robert Kirsop
Kẻ đã cư trú tại Đàng Trong trong năm 1750
Ngô Bắc dịch
Lời Người Dịch
Hai bản văn về tình hình Đàng Trong vào khoảng cuối thập niên 1740 được dịch dưới đây là từ quyển sách nhan đề Oriental Repertory: Vựng Tập Phương Đông, của Công Ty Anh Quốc Về Đông Ấn Độ, xuất bản tại Luân Đôn từ năm 1793 đến 1797 tại Luân Đôn, và được biên tập bởi ông Alxander Dalrymple (sinh ngày 24 Tháng Bảy, 1737 – mất ngày 19 Tháng Sáu, 1808). Ông Dalrimple là người được bổ nhiệm làm nhà hệ thống thủy đạo học (hydrographer) đầu tiên của Hải Quân Hoàng Gia Anh Quốc vào năm 1795, phụ trách việc vẽ các họa đồ đi biển.
Oriental Repertory, như tên gọi, là sưu tập gồm bốn số (từ số I đến số IV) đầy đủ và đều đã được xuất bản trong thời gian từ 1791 đến 1797, dưới sự biên tập của Alxander Dalrymple, kẻ từ quê quán tại Edinburgh lên London vào năm 1752 và được chỉ định làm người soạn thảo văn thư (writer) trong Công Ty Đông Ấn thuộc Anh, với nhiệm sổ đầu tiên là Madras, Ấn Độ. Trong khi phục vụ tại Công Ty này, ông quan tâm đến các khả năng mậu dịch với vùng Đông Ấn Độ và Trung Hoa, và sau đó đã thương thào một hiệp ước với lãnh chúa đảo Sulu và đã thăm viếng Quảng Châu khi mới 22 tuổi. Năm 1765, ông quay trở về London và được tuyển chọn thành một hội viên của Hiệp Hội Hoàng Gia (Royal Society). Người ta tin rằng ông Dalrymple đã là kẻ chuyển giao tin tức cho Francis Beaufort để cải tiến và chế tạo ra máy đo sức gió khi hải hành mang tên Beaufort mà ngày nay vẫn còn được sử dụng.
Ngay khi đương thời, Oriental Repertory được nhìn nhận là “sưu tập quý báu các dữ kiện về thương mại, lịch sử, các phong tục, và lịch sử thiên nhiên của vùng Đông Ấn Độ và Trung Hoa…” “Công Ty Đông Ấn Độ đã tài trợ việc ấn hành các tập tài liệu với việc nhận mua 100 ấn bản trong 250 ấn bản in ra …”
Về bài viết của Robert Kirsop được dịch dưới đây, chủ biên Dalrymple đã cho biết, trong Lời Giới Thiệu đề ngày 5 Tháng Mười Hai, 1791, cho Số II của Quyển Oriental Repertory, nơi các trang 3 và 4, như sau:
“Bài Tường Trình về Đàng Trong của ông Kirsop, ngoài chân giá trị của nó, có lợi thế là một mắt xích trong Sợi Dây liên kết, của Sự Quen Thuộc của Âu Châu với Xứ Sở đó: Các Chú Thích một phần là từ Một Bản Thảo tiếng Tây Ban Nha, nằm trong tay ông Kirsop; và một phần từ một Bản Thảo tiếng Anh, mà theo tôi hiểu đã được viết bởi Bác Sĩ Duff, kẻ đã làm một Ông Quan (Mandareen) tại Đàng Trong”.
Thời điểm của bài viết này nằm trong thời trị vì của Nguyễn Phúc Khoát, tức Vũ Vương, hay Chúa Vũ, kéo dài từ 1714 đến 1765 tại Đàng Trong. Đàng Ngoài khi đó dưới quyền Chúa Trịnh Doanh (1740-1767) và Vua Lê Hiển Tông (1740-1786).
Bản dịch này dịch thẳng từ nguyên bản ấn hành trong các năm đầu của thập niên 1790, với Anh ngữ có cách viết ít nhiều khác với ngày nay, như mẫu tự s vẫn còn được viết bằng mâu tự f (ví dụ, person vẫn viết là perfon), phần văn phạm vẫn chưa chuẩn, câu văn đôi khi trục trặc, nhưng không quá khó để hiểu được ý nghĩa một cách gần như chính xác, các từ hầu như được viết Hoa một cách tùy hứng, không theo quy tắc gì cả, hay có lẫn lộn cả các dấu hiệu thay cho từ ngữ trong bản văn, như hình cái mỏ neo thay cho các từ thả neo. Người dịch cố giữ càng nhiều càng tốt các sự bất quy tắc này trong bản dịch để độc giả có thể hình dung phần nào nguyên bản Anh ngữ cách đây hơn 200 năm, ngoài bản chụp lại một trang từ nguyên bản..
Trong sô I của Vựng Tập Đông Phương này, cũng có đăng tải các phần giới thiệu về phái bộ Bowyear của Công Ty Đông Ấn thuộc Anh sang Đàng Trong trong các năm 1695-7 cùng phần nhật ký của ông Bowyear, nơi các trang 65 đến 94. Chủ biên Dalrymple đã nói về tập Voyage to Cochin-China của phái bộ Bowyear trong lời giới thiệu đề ngày 9 Tháng Tư, 1791 cho số I này như sau:
“ Tập Voyage to Cochin-China, được trich xuất bởi chính tôi tại Madras, nhiều năm trước đây; tôi đã kiểm chứng nó với một Bản Thảo hiện vẫn giữ tại Nhà Đông Ấn (East India House), mà ông Thomas Wilkes đã cứu vớt, cùng với nhiều tài liệu kỳ lạ khác, ra khỏi sự hỗn độn và lãng quên, trong đống các Tài Liệu Cũ của Công Ty Đông Ấn bị vứt bỏ.”
Bản dịch tập tài liệu này của Bowyear sẽ được ấn hành trên Gió O khi thuận tiện.
*****
COCHIN-CHINA (ĐÀNG TRONG), được gọi bởi người Trung Hoa và Dân Bản Xứ, là AYNAM (AN NAM), bao gồm cả CHAMPA (xứ CHÀM), và Tỉnh Miền Nam, giờ đây lệ thuộc nó, nằm ở Vĩ tuyến từ 10050’ Bắc đến 17040’ Bắc. Hải cảng Mậu Dịch duy nhất là Faifoe (Hội An), ở Bắc vĩ tuyến 160 a, tọa lạc cách Biển khoảng 10 dặm, trên một Con Sông, có thể hải hành, trước đây dành cho các Thuyền Buồm lớn nhât, giờ đây chỉ dành cho các tàu có trọng tải khoảng 80 Tấn; Các Thuyền Buồm đậu cách xa Thị Trấn khoảng một hải lý, tại một Con Sông khác, có thông thương với con sông trước, nơi mà các chiếc Tàu có trọng tải 180 hay 200 Tấn có thể tiến vào dễ dàng. Đàng trước các Con Sông này, cách (Đất Liền (the Main) (là vùng đất thấp) khoảng 3 hải lý, có Quần Đảo Champello (Cù Lao Chàm), tại Bắc Vĩ Tuyến 160 8’; bên trong Đảo lớn nhất, bạn có chỗ [trong nguyên bản có hình vẽ cái mỏ neo tàu ở đây, người dịch phỏng đoán hình mỏ neo này để thay cho từ ngữ thả neo. Hình vẽ mỏ neo này sẽ còn xuất hiện nhiều lần sau này trong nguyên bản, chú của người dịch] thả neo tốt, khoảng 1 hay 2 dậm từ bờ biển [shoar trong nguyên bản, tiêng cổ trong Anh ngữ để chỉ bờ biền, chú của người dịch] khi địa thế chuyển từ hướng Đông Bắc (NE) sang Đông Bắc Đông (ENE), là nơi bạn phải (hình mỏ neo: thả neo), cho đến khi được phép mua bán, và nếu tàu của bạn đủ nhỏ, để tiến vào Con Sông. Theo hướng Tây Bắc của Champello là một vùng đất rất cao, trên Đất Liền, xuất hiện như một Hòn Đảo, quanh nó, là Vịnh Đà Nẵng (Bay of Touron), có khả năng tiếp nhận Các Tàu lớn nhất, nơi Tàu Macao thả neo, hay bất kỳ Thuyền Buồm lớn nào, kéo theo quá nhiều nước tràn vào Sông Hội An; nhưng việc này rất bất tiện; Các Thuyền thường cần đến một tuần để thực hiện một Chuyến Đi, bằng tàu, từ Hội An ra. b
Khi bạn đến nơi, Các Quan Chức lên trên tàu, “cho đến khi bạn có được Dấu Đóng Ấn Tín Của Vị Chúa, và lệ phí nhập nội của bạn được thỏa thuận, tùy theo kích thước chiếc Tàu của bạn, hay theo Hàng Hóa trên tàu; là việc họ sẽ cần đến một Bản Kiểm Mục (Account). Có một nhân viên tại Faifoe, thuộc một văn phòng tương tự như văn phòng của Shabander[nhiều phần sai chính tả, có lẽ là Shebander, hay Shebunder, chỉ người chủ hải cảng, hay kẻ cai quản một hải cảng tại các đảo Đông Ấn Độ (East Indes), chú của người dịch], sẽ trợ giúp bạn, trong việc nhập nội; là người cần để đưa tặng quà biếu cuối cùng; mặc dù tôi tin rằng bạn sẽ không thể hoàn tất việc này, cho tới khi bạn có mặt tại chỗ nơi nó được giao dịch, luôn luôn ở Whey: Huế [?], nơi vị Chúa ngự trị, cách Hội An hai ngày đường; bởi đó là nơi tốt nhất để đẩy nhanh càng sớm càng tốt, nơi bạn sẽ hành động với nhiều sự chắc chắn hơn và không sợ bị lừa gạt bởi bất kỳ Viên Chức cấp thấp nào, có thể giả bộ như ông ta có đủ thẩm quyền để phục vụ bạn. c Tại Triều Đình, Viên Quan Lại duy nhất, có thẩm quyền giải quyết cho bạn là Ung chee mo: Ông Cơ Mật [?]; người mà vị Chúa tín nhiệm, và tham khảo trong mọi trường hợp cụ thể, liên quan đến Thương Mại, và là người mà bạn nhất thiết phải kết làm bạn; Ông ta là một Nhân Vật rất vĩ đại, và mới nhậm chức trong năm 1750. Những gì thương thảo về Mậu Dịch với vị Chúa, sẽ được giao dịch bởi viên Thái Giám thứ nhì, người Thâu Ngân Viên của Chúa không có Dinh Phủ riêng, kẻ mà một số quà tặng nhỏ sẽ cần biếu: Tàu Macao Ship có trọng tải khoảng 500 tấn, đóng hàng năm 3000 Quan [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] (ngoài các tặng phẩm biếu các Quan Chức của vị Chúa) và có mọi sắc thuế được giải trừ, theo luật lệ của Xứ Sở, là 12 Phần Trăm [trong nguyên bản có hình trông giống như chữ P hoa viết tay trước từ Cent, chú của người dịch] trên mọi hàng hóa nhập cảng; nhưng tỷ lệ đó luôn luôn được miễn giảm và tình tròn thành một tổng số tiền, được thỏa thuận vào lần nhập nội đầu tiên của bạn; d và, trong khi đang ở đó, bạn có thể đồng ý tùy ý muốn của bạn để có một chiếc Tàu, với bất kỳ Trọng Tải (Burthen) nào, sẽ lại đến vào năm khác: người Trung Hoa luôn luôn có một sổ thông hành cho mỗi Thuyền Buồm của họ, và trả từ 1 đến 2000 Quan mỗi năm.
Khó khăn nhất ở đây, (khi có thể bạn không quen thuộc với Ngôn Ngữ của họ) là việc giao dịch mọi Công Việc của bạn xuyên qua một Nhà Ngữ Học [Linguist trong nguyên bản, ở đây có nghĩa thông dịch viên, chú của người dịch], kẻ lúc nào cũng ở bên bạn, và sống trong nhà bạn; họ thường được trả 2 hay 300 Quan mỗi mùa, e ngoài phụ bổng, sẽ khó để gạt bỏ khoản này; Chỉ có ba nhà ngữ học chuyên môn, f Miguel, Gregorio, và Thomas; Miguel phục vụ tiếng Pháp, và đồng nghiêp, thồng minh và có khả năng nhất, là, và với Thomas, khi còn trẻ được mang đi bởi Đức Ông Friel đến Pondicherry, và ở đó đã trở thành tín đồ Thiên Chúa và được dậy dỗ để nói tiếng Bồ Đào Nha; Gregorio phục vụ cho người Macao. Nếu ba người này đang bận việc, còn có hai người nữa có thể thay phiên nhau phục vụ cho bạn, Manico, và Ông (Monsieur) Paulo; họ đều nói tiếng Bồ Đào Nha, ngoài Paulo là kẻ thông thạo tiếng Pháp; nếu vào lúc bạn đến Hội An, bạn sẽ bị thua thiệt rất nhiều vì thiếu một người thông dịch, cho đến khi bạn tới Triều Đình, nhiều phần bạn sẽ tìm được một vài người có thể làm việc trong 2 hay 3 ngày tại Trụ Sở Bồ Đào Nha (Portuguese house), cơ quan mà thường quanh năm có nhân viên tại Hội An; nếu không, khi đó điều đáng làm là nạp đơn lên Quan Cai Quản (Governing Mandarine), nơi để gửi đơn xin một trong các nhà ngữ học nêu trên từ Triều Đình. Việc đó rất hay và cụ thể, nhằm giữ ông ta trong tầm chú ý của bạn, bởi trên đó sự thành công lớn lao của bạn tùy thuộc vào; nhưng bất kỳ người nào nhắm đển việc có được một công cuộc Mậu Dịch dễ dàng và thành công thuận thảo, với Đàng Trong, phải bắt đầu càng sớm càng tốt học hỏi ngôn ngữ của họ, điều có thể dễ dàng đạt được; mặc dù Hán tự có được dùng, để diễn đạt các sự việc và ý nghĩa nổi tiếng, song tiếng nói thì hoàn toàn khác biệt, và thuộc một loại diễn đạt giản dị và dễ dàng hơn nhiều.
Người Trung Hoa chiếm thị phần lớn nhất trong Mậu Dịch của Đàng Trong, (chở đến đó Kẽm g [Toothenague trong nguyên bản, tiếng Anh cổ, ngày nay được viết là tutenag, chú của người dịch], hàng hóa Trung Hoa, Trà, và số lượng lớn các Loại Củ Rễ và Cây Thuốc) và một ít hàng được chở tới, từ bất kỳ nơi nào của Ấn Độ, khiến rất khó tiên liệu về những Hàng Hóa nào có thể đáp ứng cho Hải Cảng đó; Thiếc sẽ bán được, 22 đến 25 Quan /Tạ, không thể nào bị lỗ khi tính theo Dollars; Kẽm được mua trọn gói bởi vị Chúa, với giá 13 và 14 Quan/Tạ; và Các Thử Nghiệm có thể được thực hiện về mặt hàng Gỗ Đàn Hương (Sandal Wood) và Hạt Tiêu; một ít hàng dao kéo sẽ bán được; sẽ không cần số Vốn lớn lao để mua được một Chuyến Hàng Đường Mía, cho một chiếc Tàu nhỏ, sẽ là món hàng thích đáng nhất, ưu tiên gửi đi; doanh lợi của các Số Tiền Thu về sè trả lời, nếu bạn chỉ có chính mình trong số Vốn bỏ ra ở đó. Một loại Đồng tiền (Cash: hiện kim), được chế tạo bằng Kẽm, là Tiền Tệ duy nhất của Xứ Sở, 600 Đồng bằng một Quan, có giá trị gần sát nhất với hai Rupees, h và được chia thành 10 Mace [?, nhiều phần đây là cách viết sai của danh từ Hán Việt, có âm đọc là Mạch, đơn vị tiền tệ chính thức dưới Quan nhưng trên Đồng, tuy nhiên dân chúng thường gọi bằng tiếng Việt là Tiền, chú của người dịch] hay Tean (? Tiền), trị giá mỗi Tiền là 60 Đồng; tất cả được xâu thành chuỗi với nhau, và được phân cách bằng một nút thắt, ở mỗiMạch (hay Tiền): Những đồng tiên bạn nhận được từ vị Chúa thì luôn luôn nguyên chất và mới, i và có thể lại dùng để thanh toán, mà không có bất kỳ sự nghi ngờ nào về sự thiếu hụt; nhưng trong các giao dịch của bạn với bất kỳ người nào khác, bạn phải chịu nhận các Đồng tiền cũ và pha tạp [kim loại khác], rất khó khăn để chi tiêu lần nữa, ngoài việc bị mất mát khoảng 4 hay 5 phần Trăm. Vị Chúa tinh lọc và đúc tất cả số Bạc của ông thành Các Nén nặng 10 Lạng (Tale), mà ông đôi khi dùng để trả lương cho Các Binh Sĩ của ông, với giá 20Quan mỗi nén, nhưng chúng không bao giờ cao hơn giá đương hành, được bán với giá 16 hay 17 Quan; Bạc rất ít khi được sử dụng ngoài việc trang điểm cho Vũ Khí của họ.
Các số đo về Trọng Lượng thì giống y như bên Trung Hoa, và họ dùng Dodgins [trong nguyên bản, không thấy có trong các tự điển Anh ngữ ngày nay, phỏng đoán là các loại rổ, thúng, sọt v.v…được dùng để đong và cân, với sự ước định một trọng lượng thảo thuận nào đó cho mỗi rổ, sọt, thúng, chú của người dịch] theo cùng cách thức; duy chỉ với Đường Mía là họ định chúng nhiều hơn phân nửa so với bất kỳ Sản Vật nào khác; như thế bạn có 150 Cân Trung Hoa [China Cattys: Đơn vị đo trọng lượng tại Đông Nam Á, bằng 1 cân rưỡi của Anh hay khoảng 600 grams, chú của người dịch] thông thường, hay 200 cân Anh (lbs) cho mỗi 100 Cân hay 1 Tạ (Pecul) Đường; dù thế phần lớn người Trung Hoa cân nặng thêm 10 Cân, khiến cho một Tạ Đường Mía bằng 160 Cân Trung Hoa thông thường. j
Sản Phẩm tốt nhất mà Xứ Sở sản xuất, cho một Chuyến Hàng, là Đường: Kẹo Đường (Sugar Candy) tốt nhất thường được bán từ 5 Quan 2 Tiền (5Q2M) đên 4 Quan 5 Tiền (4Q5M) mỗi Tạ; k Đường Bột Trắng Mịn, từ 4 Quan đên 3 Quan 5 Tiền, loại trung bình, giống như đường của Manila, vào khoảng 3 Quan, và Đường Bột Màu Nâu, từ 2 Quan 6 Tiền đến 2 Quan. Giá được hạ xuống để bán trong các Tháng Sáu, Bẩy, và Tám; nhưng khối lượng lớn nhất [là] trong nửa tháng cuối của Tháng Bẩy, l khi người Trung Hoa bận rộn mua nhẵn hết đường để chở về Trung Hoa; Đại Lý Bồ Đào Nha (Portuguese Factor), có phép đặt tại đó, thường mua trong nửa tháng cuối của Tháng Tám và Tháng Chín, sau khi Tàu của họ [người Trung Hoa] và mọi Thuyền Buồm đã rời khỏi, rẻ hơn một cách đáng kể so với các giá nêu trên; Các Phụ Nữ đôi khi sẽ ngồi trên đường phố với các Mẫu Đường nhỏ, nhưng các kẻ thường đến nhà của các người đàn bà đó là các người mua với khối lượng lớn, và sau khi giá cả được thỏa thuận, theo Mẫu Đường này, họ sẽ mang tất cả số đường đến Sân của bạn; và ở đó, trước khi được cân, từng rổ (thúng, sọt) được dò bởi một cây soi thon, nhọn một đầu, theo đó bạn có thể dễ dàng phát hiện bất kỳ sự gian trá nào; nó luôn luôn đựng trong các chiếc rổ vô cùng bất tiện nặng 4 hay 500 Weight [? không rõ trọng lượng của đơn vị này, có thể là cân Anh (pound), chú của người dịch] mỗi rổ, m và mỗi Parcel (Mảnh, Khu, Kiện) (có thể từ 5 đến 15 Rổ) thuộc loại đường khác; vì lý do đó thường bắt đầu đổ tất cả số Đường của bạn ra, và trộn thật đều với nhau để đạt tới độ gần đống nhất về phẩm chất, và với phí tổn riêng của bạn, đổ lại vào các Rổ nhỏ hơn. n Họ có đầy hàng Lụa, o mà họ sản xuất lấy trong phần lớn các gia đình, chỉ dành cho y phục của chính họ; dù thế, nếu họ, cách nào khác có nhu cầu về loại Sản Phẩm đó, sẽ mau chóng nâng nó lên mức hoàn hảo tuyệt vời y như tại Trung Hoa. Người Bồ Đào Nha đã khiến họ làm ra một số lụa có Sọc Màu Nâu chán ngắt, nhằm đáp ứng cho việc chở đến Macao, và xuất cảng lại sang nhiều nơi của Ấn Độ. Xứ sở sản xuất số Quặng Sắt (Iron-Ore) vô cùng phong phú, mà họ chỉ tinh chế nhừng gì phục vụ cho chính họ; p và giống như Vàng (Gold), chính yếu qua tay của vị Chúa, và được đúc thành các Thanh (Barrs), hay Thỏi (hay Nén: Ingots) nhỏ, từng 10 Lạng (Tales) một; mà với triện đóng của vị Chúa, luôn luôn được chuyển sang Trung Hoa với độ ròng 94 (94 Touch), nhưng các thỏi như thế không có [độ ròng như thế], thì không đáng tin cậy; trước đây được bán với giá từ 150 đến 190 Quan mỗi Thanh; nhưng kể từ khi Đồng tiền bằng Kẽm được sử dụng quá nhiều, đã lên giá từ 200 đến 225 Quan. Họ có một loại rất tốt Gỗ Aagala-Wood [?], nhưng sự xuất cảng bị cấm đoán. q
Những quà tặng r có thể được chấp nhận nhiều nhất là Các Tấm Vải Khổ Lớn hạng tốt, Các Đồng Hồ Treo Tường Và Đồng Hồ Đeo Tay kỳ lạ; bất kỳ Vũ Khí kỳ lạ nào; một Dụng Cụ Theo Dõi Thời Tiết [như Phong Vũ Biểu]; Các Dụng Cụ để Quan Sát Thiên Văn, Kính Thiên Văn nhỏ, Khăn dài, loại Tốt, Vải bóng như gợn sóng hay vải trắng hạng tốt (vải nhiễu) [Morees or Cambrick: hai từ ngữ này không có trong các từ điển Anh ngữ ngày nay, người dịch phỏng đoán là Moirés or Cambric và dịch theo sự ức đoán này, tức vải nhiễu], một Thanh Kiếm nhỏ đẹp đẽ, Các Con Chó thuộc giống tốt, Các Chiếc Gậy (hay Roi), phần lớn các thứ này là do chính vị Chúa khuyên cáo mang đến cho ông.
Thành phố nơi vị Chúa cư ngụ, được gọi, bởi người Trung Hoa và Dân Bản Xứ, là Whey [Huế], Bắc vĩ tuyến 16048’, cách biển khoảng 25 dậm, trên một con sông, nơi cửa sông ở hướng Tây Bắc nghiêng sang Tây (NWbW) đối với Cù Lao Chàm (Champello), và tọa lạc tại Bắc Vĩ Tuyến 16055’nơi họ có một Hoạt Động Mậu Dịch lớn lao, từ Kancao [nhiều phần làCancao, tức Hà tiên, chú của người dịch], và mọi nơi trên bở biển của chính họ, bởi Các Tàu trọng tải 50 hay 60 Tấn, có thể dễ dàng ngược dòng lên đến Thành Phố, nhưng Cồn Cátthì gây trở ngại, vào lúc nước thấp chỉ sâu có 4 bộ Anh; Thành Phố thì rất rộng mở, đông dân cư và các nhà cửa thì rải rác [stragling trong nguyên bản, Anh ngữ ngày nay viết làstraggling, chú của người dịch]; nhiều phụ lưu của Con Sông, hội tụ nhau ở đây, khiến cho nó rất thú vị; và sự chuyên chở, từ nơi này đến nơi kia, phần lớn trên sông; vì lý do này, mọi Gia Đình khá giả đều có một Chiếc Thuyền có mui che rộng rãi, và có các chiếc thuyền khác được cho thuê, có thể được gọi đò tại bất kỳ nơi nào: Các Đường Phố, gần Hoàng Cung, thì ngay ngắn, dài, và rất rộng: Hoàng Cung có hình Vuông chính xác, vào khoảng 500 bước, có tường thành và bao quanh bởi Các Khẩu Súng, không có các bức tường che chắn, rất lộn xộn và được gắn một cách cẩu thả; hầu như chỉ để bày hàng; Bên Hông cạnh Con Sông có 3 Cổng tráng lệ, trước đó là một Cung Điện nhỏ trên Con Sông, được dựng trên các cọc với nhiều gian buồng ngăn nắp, và không xa được rào lại bằng các hàng cọc [pallisadoes, Anh ngữ ngày nay viết là palisade(s), chú của người dịch], chừa lại bên trong chỗ đủ cho các Chiếc Thuyền câu cá, làm trò giải trí cho Chúa và Các Phi Tần của ông.
Thị Trấn Hội An thì lớn hơn một con đường hẹp rất dài một chút, chỉ đủ chỗ cho một dẫy Nhà, trên phía cạnh Con Sông, các ngôi nhà tốt nhất, được xây với mục đích cho Các Nhà Mậu Dịch Trung Hoa thuê mướn, ở bên phía đối diện, sẽ mang về từ 200 đến 500 Quan mỗi Mùa; s có các căn nhà khác nhỏ hơn, nhưng cũng đủ rộng rãi, có thể thuê được với giá 8 hay 12 Quan mỗi Tháng.
Hình Thức Chính Quyền, gần giống như tại Trung Hoa, cũng như về ngạch trật. và phẩm chất của Các Quan Lại (Mandarines), nhiều người trong họ thuộc dòng giống Trung Hoa, đã tỵ nạn ở đó, vào lúc có cuộc Chinh Phục Của Dân Mông Cổ (Tartar Conquest); người dân Đàng Trong có búi tóc được cột lại, vẫn giữ lại nguyên y phục và dần ăn mặc như người Trung Hoa đã mặc, trước khi họ gặp phải sự ghét bỏ đó. Họ có một sự Kiêu Hãnh lớn lao, mặc dù đủ lịch sự, dùng nhiều nghi lễ trong cách cư xử của họ, và tính trọng Hình Thức trong cách ăn mặc của họ; hơi hám lợi, nhưng không phải là các kẻ lừa đảo; cũng lịch sự không kém các người Trung Hoa, có ý kiến thiện cảm hơn về Các Người Ngoại Quốc, các kẻ mà Các Quan Lại giỏi giang nhất sè tiếp đón, và chiêu đãi rất tử tế, trong các Cuộc Thăm Viếng của họ. t Các Phụ Nữ có rất nhiều tự do, rất siêng năng, và không lấy làm ngại ngùng [seruple trong nguyên bản, người dịch phỏng đoán do sắp chữ sai, nhiều phần là scruple] trong việc nói chuyện và thương thảo với Các Người Ngoại quốc; và công việc nhà của bạn sẽ không bao giờ được quản lý một cách đúng đắn, cho tới khi được đặt dưới sự chăm sóc của một người trong họ, kẻ, giữa các Dịch Vụ cần thiết khác, sẽ rất trung thành, trong công việc tẻ nhạt đếm tiền Đồng của bạn, nhưng bạn đừng bao giờ lấy một người mà không được giới thiệu một cách kỹ lưỡng. u
Xứ Sở gần Biển, phần lớn có địa thế thấp, rất phì nhiêu và được dẫn nước đầy đủ bởi Các Con Sông: nhưng hơi xa hơn vào phía trong, địa thế thì cao và nhiều núi đồi; do đó họ có nhiều Gỗ Cây và Ván, đặc biệt gỗ Tindolo; v mà với sự phong phú của Xứ Sở, lôi cuốn người Trung Hoa đến đóng nhiều Thuyền Buồm của họ tại đó; Gạo, và đủ mọi loại Rau, họ có thừa thãi, và các Thực Phẩm thông thường khác: Có nhiều Voi tại Xứ Sở, nhưng ít con được nuôi giữ, chỉ dành cho sự sử dụng của vị Chúa * w [chỗ này bị mờ, không rõ trong nguyên bản] mà Chúa ra lệnh huấn luyện chúng thường xuyên, và giữ đúng theo nhiều mệnh lệnh, * w [chỗ bị mờ, không rõ trong nguyên bản] gần Hoàng Cung của Chúa, cũng có rất nhiều Con Ngựa nhỏ nhanh nhẹn, được nuôi dưỡng rất nhiều khắp Nước.
*****
CÁC CÁCH THỨC HÀNH ĐỘNG CỦA NGƯỜI PHÁP,
VÀ MỘT SỐ LÝ DO CHO SỰ THẤT BẠI
CỦA HỌ TẠI ĐÀNG TRONG, TRONG NĂM 1749
Họ, với nhiều xác xuất nhất, được khuyến khích bởi Các Giáo Sĩ Truyền Đạo (Missionarys), và Ông (Mons.) Friel (người đã ở đó ít năm trước đây, trên đường từ Trung Hoa đếnBờ Biển Coromandel: Coast of Coromandel [thuộc Đông Nam Ấn Độ, chú của người dịch]) đến nơi, và ít nhất có đặc quyền của một đại lý để ở lại đó; Ông Le Poivre, kẻ đã ở đó trước đây, được phái đến với Tư cách Ủy Viên: Commissaire của Quốc Vương Pháp, và ông Laurens là Viên Chức Phụ Trách Thương Mại (Supercargoe) của chiếc Tàu, và được chỉ định lưu trú ở đó. Khi tới nơi Le Poivre đã vội vã đến Triều Đình trong cung cách oai vệ với các cận vệ và đoàn tùy tùng và đã thực hiện ở đó một sự xuất hiện rất huy hoàng: Ông có một Lá Thư, từ Quốc Vương nước Pháp, khẩn nài Tình Hữu Nghị của Vị Chúa Đàng Trong, và ông đã dâng lên vị Chúa Bức Hình Quốc Vương nước Pháp trên quốc huy, một cặpngựa nhỏ đáng thương, một cặp Gương soi khổ lớn, một Kính Thiên Văn, và nhiều vật tầm thường khác. Tiền Dự Trữ của họ chính yếu là Đô La (Dollars) mà họ có thể bán khi mới đến cho người Bồ Đào Nha, nhưng nhằm nâng cao giá hơn, họ xin Đóng Ấn Của Vị Chúa trên đó, để lưu hành như Tiền tệ của Xứ Sở, với tỷ giá bằng 1 Quan 2 Tiền và một vàiĐồng lẻ, và vị Chúa, tự bản thân không đổi đồng nào ở tỷ giá đó, dễ dàng chấp thuận nó, dù cao hơn thực giá khoảng 8 phần trăm; người dân trong nước khám phá ra điều này, né tránh buôn bán với họ, và với toàn thể Chuyến Hàng của họ, họ đã không thể mua được nhiều hơn khoảng 1000 Tạ Đường Mía; và mang phần lớn tiền Đô La đi với họ. Thực sự nhờ các Tặng Phẩm của họ với vị Chúa, và sự ân cần thường xuyên đối với ông, vị Chúa đã miễn cho họ Mọi Lệ Phí Hải Cảng, và luôn luôn đối xử với họ cực kỳ lịch sự. Vì tính dễ dài này của Chúa Vương, đã dẫn dắt Le Poivre đên việc coi nhẹ và bất chấp các Quan Thượng Thư của vị Chúa, đã khơi động sự bực bội của họ, cũng như một sự chú ý đến những gì có thể là chủ đích của một Giống Dân đã mang lại một nỗi ngờ vực, qua dáng vẻ cao ngạo của họ, hẳn phải có một vài điều gì khác để nhắm đến, hơn là chỉ có việc mua và bán? x Họ trước tiên khởi sự với việc mua chuộc nhà Ngữ Học [thông dịch viên], bởi họ nhận thấy ông Le Poivre lúc nào cũng mơn trớn anh ta, gần như thể làm anh ta trở thành Tình Nhân của ông, và bằng phương pháp này đã sớm khám phá ra toàn thể các ý đồ của ông ta trước khi ông ta đã nghĩ rằng đây là lúc để thực hiện chúng; tôi không thể giả vờ để phô bày công khai một cách đặc biệt rằng chúng [các ý đồ] là gì, mặc dù tôi chắc chắn rằng sự khám phá đã tạo ra một sự ngạc nhiên khác thường trong Các Quan Lại, và làm họ sững sờ với Các Ý Tưởng kinh khiếp về Các Khẩu Đại Pháo, các bức tường cao, và Các Ranh Giới giới hạn ngân cấm họ, và được sở hữu bởi Các Người Ngoại Quốc tại trung tâm của Xứ Sở chính họ: Nhà Ngữ Học thường được giới thiệu một cách riêng tư với vị Chúa, và trở nên được lòng rất nhiều với Các Quan Lại, trong khi Các Bí Mật của Le Poivre được tiếp tục đổ dồn về anh ta [nhà ngữ học]: Họ vần cư xử bình thường với nhau; Le Poivre tiếp tục vui vẻ, luôn luôn ra sức tuyên truyền họ về tính vĩ đại của Quốc Vương ông ta, và những kết quả sẽ mang lại cho vị Chúa Đàng Trong để có một Người Bạn như thế; thái độ này, vị Chúa nghĩ là giả tạo, càng làm tăng thêm sự bất mãn của Ngài, và sau cùng Chúa trở nên mệt mỏi, và muốn họ ra đi; và khi đó, Le Poivre, bị thất vọng một cách lớn lao, tìm cách ép buộc trên một số đề nghị đáng tởm, nhằm giúp Người Dân Nước ông được chiếm ngụ một mảnh Đất nhỏ, và vị Chúa đã lạnh lùng giáng xuống ông ta một sự từ khước: Tôi không rõ là liệu ông Laurens đã bị bác bỏ Phép để cư trú trong nước hay không, hay liệu ông ta đã khước từ Giấy Phép, như không cần thiết, sau nhiều sự thất vọng khác cụ thể hơn: họ [người Pháp] đã không khám phá sự đánh lừa của Nhà Ngữ Học, cho đên gần lúc ra đi, và khi họ nhận thấy, rằng anh ta đã chơi khăm và lừa dối họ, trong hầu hết mọi việc đã được úy thác cho anh ta; vào lúc khởi hành, họ mời anh ta lên tàu, với một số lý do giả vờ cần giải quyết Các Bản Kiểm Mục, và bằng vũ lực, bắt anh ta mang đi; trước thời điểm này, họ đã khởi sự hành động trong một cung cách rất cứng rắn và cáu kỉnh với người Dân Bản Xứ; nhưng Hành Động cuối cùng này (như thể họ không thèm quan tâm đến những phiền nhiễu có thể khiến các Kẻ Lân Cận họ dính líu vào) khiến cho cả Nước trong cơn náo động; và các lực lượng đã được phái đến mọi vùng, để chặn Con Tàu lại, nếu nó có ghé vào bất kỳ nơi nào trên các Bờ Biển của họ: Trước thời điểm này, người Đàng Trong chưa hề biết đến sự khác biệt giữa Các Người Âu Châu; Trong lá thư của Vua [nước Pháp], họ được cảnh giác rằng không nên có bất kỳ sự buôn bán nào với Anh Quốc hay Hòa Lan, y điều này đã góp phần mang lại cho vị Chúa một sự nghi ngờ về sự thành thật của họ, ngoài việc đên nơi với sự giới thiệu của Ông Friel, kẻ trước đây đã có hành vi rất xấu; bởi khi ông ta ở đó, vị Chúa, muốn khuyến khích ông ta quay trở lại để mua bán, điều mà ông ta tự cam kết sẽ làm, đã hứa cung cấp cho ông ta số Vàng trị giá 150 Quan, một Thỏi (Nén), đã cho ông ta các Khoản Hoa Hồng trên nhiều Món Hàng Quý Hiếm Âu Châu, và đủ số Vàng để mua chúng; cũng thế, theo lời thỉnh cầu của chính ông ta, đã gửi hai Thiếu Niên đi với ông, để học tập Các Ngôn Ngữ Âu Châu; ba năm sau đó, các Chàng Trai này bị bỏ lại, không tiền bạc, trên đường đến Macao; và vị Chúa đã không nghe thấy gì nữa về Friel, hay về tiền bạc của mình, cho đến khi sau này vị chúa buộc các Giáo Sĩ Truyền Đạo phải trả lại.
Chiếc Tàu Macao đến nơi trong Tháng Ba 1750, vào khoảng hai Tháng sau khi người Pháp đã rời khỏi, khi đó mọi Thư Từ, và bất cứ thư gì gửi đến cho Các Giáo Sĩ Truyền Đạo, đều bị tịch thu, và đã có các sự giải thích khác nhau về họ bởi người Bồ Đào Nha, những người mà họ đã giam giữ vì mục đích đó, nhưng không bị khám phá là có gây tổn hại hay đụng chạm với Chính Quyền; dù thế, để giải quyết mọi sự ngờ vực, họ nghĩ họ không có thể làm gì ít hơn là việc tống xuất tất cả Các Giáo Sĩ Thiên Chúa Giáo ra khỏi Xứ Sở z ; và theo đó họ đều bị đặt dưới sự Canh Giữ, cho đến Tháng Tám tới, họ đã đi đến Macao bằng Tàu Bồ Đào Nha, ngoại trừ một người Đức, người dậy môn Vật Lý [Physick (sic) trong nguyên bản], được giữ để phục vụ gia đình của Chúa; phần lớn các Nhà Thờ của họ bị san thành Bình Địa, và Các Sách Vở Giấy Tờ của họ đều bị tiêu hủy, Các Giáo Sĩ người Pháp thì nổi bất với sự canh gác của các Binh Sĩ, đi kèm họ tới Hội An, trong khi số còn lại, tự do đi xuông đó cùng với vị Thuyền trưởng Bồ Đào Nha./-
_____
CHÚ THÍCH
a) Có một phần bị mờ xóa, khiến cho ta không rõ là Vĩ tuyến có chính xác là tròn 160 hay không, nhưng điều này cũng không quan trọng mấy, bởi Các Vĩ Tuyến cũng đã không chính xác.
b) Một MS [nhiều phần là chữ viết tắt của từ Manuscript: bản thảo, chú của người dịch] bằng Anh ngữ, có nói “Tại Đà Nẵng (Touron) bạn ‘thả neo’ (hình mỏ neo) gần một Thị Trấn hướng Tây Nam (SW), nơi có một Con Sông, lưu thông, bằng một Kinh Đào (được nạo vét hàng năm cho Các Đoàn Triều Cống của Chúa thông qua) với Sông Hội An (River of Faifoe); và xuyên qua đó Thuyền của bạn có thể đi qua”.
c) Bản Thảo Anh ngữ. “Không quá quan trọng là liệu bạn có thể yết kiến Chúa Vương hay không, nếu bạn có thể tiến hành được công việc của mình mà không cần đến nó; bởi nó sẽ gây tốn phí lớn lao cho bạn bằng các quà biếu để có một cuộc yết kiến với Chúa Vương; Bạn phải nạp đơn trước tiên lên quan Ung Kay An [?], người phụ trách điều khiển mọi việc thương mại, Văn Phòng ông ta tương tự như văn phòng của một Shabander, và cuộc hội kiến của bạn với Chúa Vương sẽ vô ích, nếu bạn trước tiên không tìm cách lấy lòng ông ta bằng các món quà hậu hĩ. Người Pháp [nói về ông Le Poivre, xem ở phần sau, chú của người dịch], trong năm 1749, đã làm mọi việc với sự trịch thượng, xem thường ông Quan này, bởi vì họ đã có các cuộc hội kiến với Chúa Vương; vị Chúa, nghĩ mình đứng trên việc giải quyết các sự vụ về Mậu Dịch, đã chuyển mọi việc về cho vị Quan này, và Ông ta đã tận dụng cơ hội tạo ra sự Thất Bại của người Pháp; và chính bởi sự xúc xiểm của ông ta mà tất cả các Nhà Truyền Giáo đã bị ngăn cấm trong năm đó.”
d) Một Bản Thảo tiếng Tây Ban Nha, trong bản viết của ông Kirsop, ghi “khoản tiền, theo tin tức mà tôi nhận được, sẽ là 2000 Coans (Quan), có thể hơn kém một chút, cho một chiếc tàu như chiếc của Gaspar {có trọng tải khoảng 200 Tẩn} với một Chuyến Hàng trị giá 60 hay 70,000 đô la [Tây Ban Nha, khi đó chưa có đô la Mỹ, chú của người dịch] .” Bản Thảo Tiếng Anh ghi “Các Thuế Quan trên mọi vật nhập cảng là 12 Phần Trăm, nhưng bạn phải lập một tờ Báo Cáo về những Hàng Hóa bạn đã có, và đồng ý để trả một Tổng Số nào đó, mọi lần khi chiếc Tàu đến đó, người Bô Đào Nha đóng tiền hàng năm cho các chiếc Tàu của họ 300 Quan [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] [q? 3000?, chú trong nguyên bản] và người Trung Hoa đóng khoảng 1500 hay 2000 tùy theo kích thước các Thuyền Buồm của họ, tổng số nạp thì luôn luôn được xác định cụ thể trong Dấu Ấn Tín đóng cho bạn”.
e) Bản Thảo tiếng Anh ghi “tiền trả thông thường là 100 Quan hay hơn tùy theo Lô Hàng của bạn, và bạn phải chấp nhận, mặc dù mặc nhiên, các “ngoại bổng” ngẫu thu. Bản Thảo Tiếng Tây Ban Nha ghi, “200 hay 250 Coans, nhưng sẽ là một lợi điểm lớn lao để mang theo một người Lai Giông (Mestizo) nói được tiếng Amoy [phát âm theo thổ ngữ Min Nan (Mân Nam) chỉ Hạ Môn, thuộc tỉnh Phúc Kiến, đối diện với đảo Đài Loan, chú của người dịch], bởi hầu hết các Quan Lại và Các Thương Gia hiểu được tiếng đó.
f) Bản Thảo tiếng Anh ghi “ người có khả năng duy nhất, Gregorie, đang phục vụ cho người Bồ Đào Nha, người này sẽ làm công việc cho bạn và bạn có thể tín thác công việc của bạn cho ông ta; nhưng ông ta là kẻ Sắc Bén duy nhất, có thể, và sẽ, dối gạt bạn mà bạn không biết; Thomas, một người trẻ tuổi, kẻ đã từng ở trên Bờ Biển Coromandel với ông Frial, anh ta thì biếng nhác và mê uống rượu, nhưng có thể dễ điều khiển, và sắc bén, cùng có nhiều sự bảo đảm; Maniko, kẻ duy nhất xứng đáng tuyển dụng khi hai người kia không cung ứng, họ đều nói tiếng Bồ Đào Nha. Và còn một người nữa, Ông Paul, nói tiếng Pháp.”
g) Bản Thảo tiếng Anh ghi “ Không có gì tốt hơn, hay hiếm có bất kỳ vật gì khác sẽ tốt như thế, để chở tới Đàng Trong Kẽm (Toothenague), thứ đồ mà vị Chúa Vương luôn luôn thu mua toàn bộ cho chính ông, thường với giá 14 Quan mỗi Tạ (pecul). Bạn sẽ nhận thấy trong số kẽm bạn bán cho vị Chúa Vương, bạn sẽ mất đi 3 Phần Trăm trọng lượng. Nếu một chiếc Tàu đi từ Ấn Độ vào nửa sau của Tháng Tư, sẽ an toàn nhất để chở Kẽm, nếu có thể mua được giá rẻ, rằng bạn có thể có tiền riêng của mình để mua nó, bởi bạn sè có lợi để nhận được Tiền Mới từ vị Chúa: Nhưng nếu Vàng có giá cao, bạn sẽ không mất gì bằng việc mang theo Đô La, và bán chúng khi bạn cập bến Bồ Đào Nha hay Trung Hoa; những người, không có khả năng đầu từ sớ tiền thu từ Kẽm bằng [việc thu mua] Đường Mía, đôi khi bị bắt buộc phải mang theo Vàng, với một sự bất lợi lớn lao: phần lớn nhất trong số dự trữ của bạn phải là đồng Đô La, hayKẽm, bởi các Hàng Hóa khác sẽ không nên trông mong ở lần bán đầu tiên, cho đến khi chúng được thử nghiệm; ngoại trừ một ít Dao Kéo (Cutlery), các Dao Bấm và Kéo loại rẻ tiền, thứ mà tôi chắc sẽ bán chạy; một ít sấp vải nhỏ nhiều loại khác nhau, có thể mang để thử bán, và một Thanh Kiếm, hay hai, của vị Chúa Tể”. Bản Thảo tiếng Tây Ban Nha ghi, “sẽ không bị thua lỗ trên Tiền Vỏ Ốc (Cowries), phẩm son (Cochineal), chất Sulfure, Balate [?] (hay Ốc Sên Biển) và Blue Dye (Tinta Azul: thuốc nhuộm màu xanh da trời) nhưng chỉ nên chở đến vào khoảng 5 hay 6000 Đô La cho chuyến Du Hành đầu tiên”.
h) Bản Thảo tiếng Tây Ban Nha ghi “7 Riales (7/8 một Đô La) là tỷ suất, hơn kém đôi chút, mà đồng Đô La có thể được bán”.
i) Bản Thảo tiếng Anh ghi “ và [có giá trị] nhiều hơn 8 Phần Trăm, so với tiền cũ, phần mà bạn chắc chắn sẽ nhận được, nếu bạn trao đổi với bất kỳ người nào khác ngoài vị Chúa Vương.
j) Bản Thảo tiếng Anh ghi “Các Số Đo Trọng Lượng, tại Đàng Trong, theo sự ấn định của Xứ Sở, giống như bên Trung Hoa; chỉ có Dodgins[rổ, sọt, thúng, đấu, hôc…] được dành riêng để đong Đường, mà bạn có thể làm lớn đến mức bạn ưa thích; Người Dân hay biết điều đó, sẽ tính Giá của họ tùy theo kích thước khi đó.”
k) Bản Thảo tiếng Tây Ban Nha ghi “3.6 đến 4 Coans (Quan) mỗi Tạ Trung Hoa”. Bản thảo tiếng Anh ghi, “Kẹo Đường nói chung được mua trong khoảng từ 4 Quan 5 Mạch (Tiền) đến 5 Quan mỗi Tạ nặng 150 Cân (cattys) Trung Hoa, và Đường Cát trăng từ 3.4 đên 4 Quan, Đường Nâu Hạng Trung từ 2 Quan trở lên mỗi Tạ.
l) Bản Thảo tiếng Anh ghi, “Sẽ cần, vào nửa sau của Tháng Bảy, muộn nhất, để thu gom Tiền của bạn, cho mọi thứ mà vị Chúa Vương đã mua của bạn, v.v…[&c. trong nguyên bản, một lối viết tắt khác của et cetera (etc hay &c), chú của người dịch], tại Triều Đình, và gửi tiền xuống Faifoe, và tự thân bạn đi xuông đó, bởi đó là lúc Đường được mang ra để xuất cảng ra khỏi Xứ Sở; và Tháng Tám là Tháng duy nhất mà bạn có thể mua Đường Mía, nhiều và rẻ; và có thể mua Chuyến Hàng của bạn nhanh theo nhịp bạn có thể cân và đóng gói đường”.
m) Bản Thảo tiêng Anh ghi, “Theo tập quán, tính Các Thúng (hay Rổ, Sọt …) (Baskets), là 20 Cân (Tàu), trừ khi bạn nghĩ chúng cân nặng hơn”.
n) Bản Thảo tiếng Anh ghi, “bạn có thể đóng gói nó lại vào các Thúng hay Sọt có kích cỡ mà bạn muốn, và toàn thể lệ phí đóng gói lại, chuyên chở v.v… không nhiều hơn 50 Đồng (Cash)mỗi Tạ”
o) Bản Thảo tiếng Tây Ban Nha ghi, “Trong năm 1750, Lụa Sống được bán với giá 200 Coans mỗi Tạ Trung Hoa: Lụa Dệt (Wrought Silk) rẻ y như tại Trung Hoa”.
p) Bản Thảo tiếng Tây Ban Nha ghi, “Sắt thì phong phú, nhưng sự xuất cảng thì bị ngăn cấm, y như tại Trung Hoa”.
q) Bản Thảo tiếng Tây Ban Nha ghi, “họ có (Mantas de Algodon, Mantequillas p* Cobijas [?]), Khăn trải giường bằng bông vải [Cotton Coverlits trong nguyên bản, Coverlits là tiếng Anh cổ, ngày nay thường viết là Coverlet hay coverlid, chú của người dịch], và nhỏ hơn làm Áo Choàng, loại tốt nhất giá 2 Coans”. [Chú thích này nhiều phần đặt sai chỗ, vì không liên quan đến phần văn bản trong bài nói về sản phẩm của Gỗ, chú của người dịch]
r) Bản Thảo tiêng Anh ghi, “Các Quà Biếu, mà tôi nghĩ sẽ được chấp nhận bởi vị Chúa Vương, là, một tấm Vải Màu Đỏ Thắm (Scarlet Cloth), một tâm Vải Dài hạng tốt, một Thanh Kiếm nhỏ xinh xắn, viễn vọng kính, và các chiếc nhẫn có 9 viên đá: vị Chúa Vương muốn có một cỗ xe ngựa với bộ yên cương và tất cả phụ tùng để đóng ngựa; Vị Chúa Vương cũng muốn có mộtChiếc Áo Giáp bằng các mảnh kim loại đan vào nhau (Coat of Mail); hai hay ba Con Chó, đặc biệt Các Con Chó Nước [Water-Dog, chó có thể bơi giỏi, chú của người dịch], và một con có thể sai vặt.
Các Quà Biếu phải được trao cho Ung Kay an [?], và cho viên Thái Giám Thứ Nhì (Second Eunuch), có thể là một tấm vải màu xanh da trời, một tâm Nhiễu [Morees trong nguyên bản, không có trong tự điển tiếng Anh, người dịch đoán là ghi sai chính tả từ tiếng Pháp danh từ Moiré, để chỉ vải có vân như sóng nước như vải nhiễu của ta, chú của người dịch] loại tốt, hay một Hộp Các Kẹp [ nhíp nhổ tóc, nhổ râu …] và một vài chiếc nhẫn; một Lọ Nước có mùi hăng xinh xắn, chứa chất tẩy rửa vết nhơ (Spirits of Hartshorn); sẽ cần thiết để trao một ít quá biếu cho quan Shabander tại Faifoe (Hội An), nhưng hãy cẩn thận đừng bao giờ để Lòng Quảng Đại của bạn xuất hiện trừ với những người mà bạn có công việc phải giao dịch, bới có vài vị Quan Lại, các kẻ sẽ tìm cách làm quen với bạn một cách rất lịch sự, và sau đó liên tục quấy rầy bạn đòi quá biếu, các kẻ không có thẩm quyền gì để phục vụ bạn”.
s) Bản Thảo tiêng Anh ghi, “Các Ngôi Nhà ở Faifoe (Hội An) sẽ phải có giá thuê, đủ tiện nghi, giữa khoảng 30 đến 100 Quan cho một Mùa.
t) Bản Thảo tiếng Anh ghi, “Giữ một cái Kiệu, với hai Phu Khiêng Kiệu, và luôn luôn có Các Đầy Tớ, để đi ra ngoài với Bạn, và cư xử với mọi người với Sự Trầm Tĩnh lớn lao.
u) Bản Thảo tiếng Anh ghi, “Nếu bạn lấy một Hầu Thiêp (Mistress), tốt hơn cô ta là một Quả Phụ của một người đàn ông Trung Hoa, và phải chắc chắn để đón nhận cô ta từ Cha Mẹ cô ấy, hay từ Các Bè Bạn; cần giữ sự bình tĩnh lớn lao với Nhà Ngữ Học (Thông Dịch Viên) của bạn, và khiến ông ta tin tưởng rằng bạn đặt một sự tín nhiệm to lớn nơi ông ta, mặc dù bạn phải đừng bao giờ tin cậy ông ta; hãy học một số từ của ngôn ngữ càng sớm càng tốt, mà Bạn, cùng với Nữ Quản Gia của bạn, có thể thực hiện một số công việc lặt vặt, không phải lúc nào cũng làm phiền Nhà ngữ Học của bạn”.
v) Được gọi như thế tại Phi Luật Tân, một Loại Gỗ giống như gỗ Mahogany (gỗ dái ngựa), song các vân gỗ gần nhau hơn.
w) Bản Thảo bị tẩy xóa.
x) Một Ghi Chú ghi, “Các Ý Tưởng về Một Khu Định Cư, đáng sợ đối với người Đàng Trong”, và “các sự Hội Kiến thường xuyên, tốn kém, và gây ra một sự coi thường các Quan Thượng Thư (Ministers), các kẻ dựa trên đó âm mưu chống lại Ông”.
y) Một Bản Thảo Mem ~. [không hiểu nghĩa từ viết tắt này, sẽ tra cứu lại sau, chú của người dịch] của ông William Roberts ghi “Lewis thứ 15 có viết cho Người Anh Làm Vua, rằng người Anh và người Hòa Lan là các kẻ Chống Lại Đạo Thiênn Chúa (Infidels)”.
z) Điều được cho biết là họ đã được tái nhập cảnh rất sớm./-
_____
Nguồn: Robert Kirsop, Phần 1: Some Account of COCHIN CHINA, by Mr. Robert Kirsop, who was there in the Year 1750, Phần 2: Proceedings of the French, and Some Reasons for their Miscariage, in COCHIN-CHINA, in 1749, trong Tuyển Tập Oriental Repertory, biên tập bởi Alexander Dalrymple, và được in bởi ông G. Biggs tại London, England, năm 1793, các trang 241- 254.
Ngô Bắc dịch và phụ chú
10.06.2013
© gio-o.com 2013
Nhãn: Khác
0 Comments:
Bài đăng Mới hơn Bài đăng Cũ hơn Trang chủ
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)