Đây là bản dịch của một bài chỉ dẫn
cách viết một bài báo khoa học mà tôi viết cũng đã trên 15 năm. Bản gốc
viết bằng tiếng Anh cho nghiên cứu y khoa. Nay tôi dịch sang tiếng Việt
và có vài chỉnh sửa. Điều khá vui là khi dịch lại tôi mới phát hiện có
vài sai sót nhỏ trong bản cũ! Thế mới biết phải đọc đi đọc lại thì mới hoàn chỉnh
được. Vì bài viết khá dài và hạn chế thì giờ, nên tôi chỉ dịch từng phần,
và sẽ post lên để các bạn nào quan tâm tham khảo. Cứ coi như là tôi muốn chia sẻ
kinh nghiệm với các bạn, một hình thức người đi trước mách mẹo cho người đi
sau, chứ chẳng phải là giảng bài hay lên lớp gì ở đây. Tôi hi vọng các bạn sẽ
rút ra vài kinh nghiệm. NVT
Mục tiêu số 1 của việc viết bài
báo khoa học là truyền đạt thông tin về một vấn đề khoa học đến các đồng nghiệp,
và tường trình những phương pháp hay cách tiếp cận để giải quyết vấn đề .
Các tập san y sinh học là phương tiện để các nhà khoa học chuyển tải thông
tin. Thông tin thường được trình bày dưới dạng một bài báo khoa học, và
bài báo được viết theo một cấu trúc đặc thù mà cộng đồng khoa học phải tuân
theo. Do đó, để thành công trong khoa học, nhà khoa học phải nắm được kĩ
năng viết bài báo khoa học. Tôi soạn bài này trước hết là đưa một số lời
khuyên về cách thức viết một bài báo khoa học, và sau đó là một cách chia sẻ một
số kinh nghiệm viết lách trong khoa học. Tôi ở vào vị thế may mắn là vì
tôi biết tiếng Việt và tiếng Anh, và cũng phục vụ trong các ban biên tập các tập
san y khoa quốc tế, nên có thể chia sẻ cùng các bạn những kinh nghiệm mà có lẽ
người nước ngoài không thể chia sẻ. Bài này được viết cho nghiên cứu sinh
y khoa và sinh học, nhưng tôi nghĩ bạn đọc các ngành khoa học thực nghiệm khác
cũng có thể rút ra vài kinh nghiệm.
Tựa đề (title) bài báo
Tựa đề bài báo được viết trên
trang đầu của một bài báo, thường ở vị trí trung tâm. Không nên gạch đích
hay viết nghiêng tựa đề. Phía dưới tựa đề bài báo là tên tác giả và nơi
làm việc của từng tác giả.
Chúng ta muốn tựa đề bài báo phải
“bắt mắt” người đọc, cho nên cần phải đầu tư một chút hời gian vào việc chọn chữ
và chiến lược chọn tên cho bài báo. Tựa đề không nên quá ngắn, nhưng cũng
không nên quá dài, mà phải nói lên được nội dung chính của nghiên cứu. Nếu
tựa đề không nói lên được nội dung bài báo, độc giả sẽ không chú ý đến công
trình nghiên cứu, và chúng ta mất người đọc. Để có một tựa đề sáng tạo,
tôi đề nghị các bạn nên tuân thủ hay ít ra là xem xét đến một số khía cạnh sau
đây:
Không bao giờ sử dụng viết tắt.
Nên nhớ rằng nhiều người ngoài lĩnh vực chuyên môn đọc bài báo của bạn, và viết
tắt có thể làm cho họ khó chịu vì họ không quen hay không biết đến những chữ viết
tắt chuyên ngành.
Không nên đặt tựa đề theo kiểu
nghịch lí hay tựa đề mơ hồ. Tựa đề nghịch ló và mơ hồ rất nguy hiểm,
vì nó biểu hiện nghiên cứu của bạn chẳng giải quyết được vấn đề gì, hay chẳng
có câu trả lời gì, và do đó người đọc có thể nghĩ sẽ rất phí thì giờ để đọc bài
báo.
Không nên đặt tựa đề dài. Tựa
đề bài báo không nên dài hơn 20 từ. Tựa đề dài có thể làm cho người đọc mất
chú ý. Tựa đề như “Genetic determination of bone mineral density in adult
women: a reevaluation of the twin model and the potential importance of gene
-environmental interaction on heritability estimates” chẳng những dài
dòng một cách không cần thiết, mà những chữ như "potential",
"estimates", "adult" cũng không thiết yếu. Tác giả có
thể viết lại như “Roles of gene-environmental interaction in the estimation of
heritability of bone mass: a reevaluation of the twin model.”
Tựa đề bài báo nên có yếu tố mới.
Yếu tố mới lúc nào cũng có hiệu quả thu hút sự chú ý của người đọc. Chẳng
hạn như tựa đề “A new family of mathematical models for describing the human
growth” (chú ý chữ “new”, tức “mới”) chắc được nhiều người chú ý hơn là tựa
đề “A family of mathematical models for describing the human growth.”
Không nên đặt tựa đề như là một
phát biểu. Thỉnh thoảng tôi vẫn thấy những tựa đề như “Smoking causes
cancer", "Oestrogen is associated with bone loss, Physical activity
is not a predictor of mortality,” v.v…. Những tựa đề này làm cho người đọc … bực
mình. Trong khoa học, không có một cái gì xác định và chắc chắn.
Chúng ta không thể nào chứng minh một giả thuyết. Do đó, dùng chữ
“cause”, hay chia động từ hiện tại như “is” (tức là nói đến chân lí) là một
cách viết thể hiện sự thiếu hiểu biết khoa học của tác giả. Nhà khoa học
là người đi tìm chân lí, chứ không phải đã tìm được chân lí.
Vì tựa đề bài báo được sử dụng
trong các cơ sở dữ liệu, nên khi đặt tựa đề cần phải để ý đến những từ khóa
(keywords). Phần lớn những cơ sở dữ liệu dùng tiêu đề và tựa đề làm thuật
ngữ tìm kiếm. Chẳng hạn như bài báo với tựa đề “The effects exercise on
free fatty acids in the blood” sẽ được phân loại dưới thuật ngữ "fatty
acids", "metabolism of fatty acids", "exercise", và
"blood". Nhưng nếu bái báo với tựa đề “The effects exercise on
free fatty acids in the blood: a study in rats using chromotographic
techniques,” thì sẽ được phân qua dưới thuật ngữ "composition of fatty
acids", "chromotographic technique", "fatty acids in
rats" và do đó sẽ thu hút nhiều độc giả hôn.
Ví dụ: Sau đây là ví dụ
trang đầu của một bài báo khoa học. Ví dụ này tương đối tiêu biểu, vì tập
san (tiểu đường) đòi hỏi tác giả phải cung cấp những thông tin liên quan đến
bài báo như số từ, số biểu đồ và bảng số liệu. viết tắt, tựa đề ngắn (còn gọi
là running title), v.v… Tập san này cho phép tác giả viết nguyên họ, nhưng tên
thì chỉ được viết tắt (chắc tiết kiệm mực!)
Chú ý rằng nhóm tác giả đặt tựa đề
nói lên được ba khía cạnh chính của nghiên cứu, đó là tiểu đường (diabetes),
huyết áp, và tỉ số vòng eo-mông. Chú ý thêm rằng, trước chữ diabetes,
nhóm tác giả thêm tính từ “undiagnosed” để gây chú ý cho người đọc, mà cũng phản
ảnh một thực trạng ở hầu hết các quần thể bệnh nhân.
Tựa đề bài báo này đã qua 4 lần
chỉnh sửa. Ba lần đầu là do chính nhóm tác giả chỉnh sửa. Đến khi bản
thảo được bình duyệt, một chuyên gia đề nghị sửa lại một lần nữa. Đôi khi
tác giả cần phải đầu tư khá nhiều thì giờ cho một tựa đề bài báo.
Phần 1. Nội dung một bài
báo khoa học
Một bài báo khoa học thường có những
phần sau đây: dẫn nhập (introduction), phương pháp (methods), kết quả
(results), và bàn luận (discussion). Cấu trúc này được gọi tắt là cấu
trúc IMRAD. Tuy nhiên, mỗi bài báo khoa học lúc nào cũng có phần tóm lược
(abstract) để -- như tên gọi -- tóm tắt các khía cạnh chính của một công trình
nghiên cứu hay một bài báo.
I. Tóm lược (Abstract)
Có 2 loại tóm lược: không có tiêu
đề và có tiêu đề. Loại tóm lược không có tiêu đề là một đoạn văn duy nhất
tóm tắt công trình nghiên cứu. Loại tóm lược có tiêu đề -- như tên gọi –
là bao gồm nhiều đoạn văn theo các tiêu đề sau đây: Background, Aims,
Methods, Outcome Measurements, Results, và Conclusions. Tuy
nhiên, dù là có hay không có tiêu đề, thì một bản tóm lược phải chuyển tải cho
được những thông tin quan trọng sau đây:
Câu hỏi và mục đích của nghiên cứu.
Phần này phải mô tả bằng 2 câu văn. Câu văn thứ nhất mô tả vấn đề mà tác
giả quan tâm là gì, và tình trạng tri thức hiện tại ra sao. Câu văn thứ
hai mô tả mục đích nghiên cứu một cách gọn nhưng phải rõ ràng.
Phương pháp nghiên cứu. Cần
phải mô tả công trình nghiên cứu được thiết kế theo mô hình gì, đối tượng tham
gia nghiên cứu đến từ đâu và đặc điểm của đối tượng, phương pháp đo lường, yếu
tố nguy cơ (risk factors), chỉ tiêu lâm sàng (clinical outcome). Phần này
có thể viết trong vòng 4-5 câu văn.
Kết quả. Trong phần này,
tác giả trình bày những kết quả chính của nghiên cứu, kể cả những số liệu có thể
lấy làm điểm thiết yếu của nghiên cứu. Nên nhớ rằng kết quả này phải được
trình bày sao cho trả lời câu hỏi nghiên cứu đặt ra từ câu văn đầu tiên.
Kết luận. Một hoặc 2 câu
văn kết luận và ý nghĩa của kết quả nghiên cứu. Có thể nói phần lớn độc
giả chú tâm vào câu văn này trước khi học đọc các phần khác, cho nên tác giả cần
phải chọn câu chữ sao cho “thuyết phục” và thu hút được sự chú ý của độc giả
trong 2 câu văn quan trọng này.
Nếu tựa đề bài báo phát biểu về nội
dung của công trình nghiên cứu, thì bảng tóm lược cho phép bạn mô tả chi tiết hơn
nội dung của công trình nghiên cứu. Độ dài của bảng tóm lược thường chỉ
200 đến 300 từ (tùy theo qui định của tập san). Bảng tóm lược giúp người
đọc nên đọc tiếp bài báo hay bỏ qua bài báo. Do đó, tác giả cần phải cung
cấp thông tin một cách ngắn gọn, nhưng có dữ liệu (chứ không phải chỉ hứa
suông) và đi thẳng vào vấn đề (chứ không phải viết lòng vòng). Thông thường
bảng tóm lược được viết sau khi đã hoàn tất bài báo. Kinh nghiệm của tôi
trong những năm đầu nghiên cứu sinh cho thấy có khi tốn đến cả ngày chỉ để viết
một abstract với 200 chữ. Tôi xem abstract như một bài thơ, tức là tác giả
phải chọn từ ngữ rất cẩn thận để phản ảnh một cô đọng những điều mình muốn chuyển
tải đến cộng đồng khoa học.
Sau đây là một bản tóm lược tiêu
biểu có tiêu đề. Bài
báo này trình bày một công trình nghiên cứu về mối liên hệ giữa các
thành phần cơ thể (mỡ, nạc, xương) ở một nhóm phụ nữ Việt Nam sau mãn kinh (LT
Ho-Pham, et al. Contributions of lean mass and fat mass to bone mineral
density: a study in postmenopausal women. BMC Musculoskeletal Disorders 2010, 11:59).
Bản tóm lược có 4 tiêu đề: dẫn nhập, phương pháp, kết quả và kết luận. Phần
dẫn nhập chỉ tóm gọn trong 2 câu văn, với câu đầu nêu vấn đề vẫn còn trong vòng
tranh cãi, và câu 2 phát biểu về giả thuyết và mục đích của nghiên cứu.
Phần phương pháp mô tả số phụ nữ tham gia, độ tuổi, nơi nghiên cứu,
phương pháp đo lường, và phương pháp phân tích. Phần kết quả đi thẳng vào
kết quả chính với những con số cụ thể. Đương nhiên, những con số này sẽ
được lặp lại chi tiết hơn trong bài báo. Phần kết luận chỉ một câu văn có
tính cách trả lời câu hỏi nghiên cứu.
Background
The relative contribution of
lean and fat to the determination of bone mineral density (BMD) in
postmenopausal women is a contentious issue. The present study was undertaken
to test the hypothesis that lean mass is a better determinant of BMD than fat
mass.
Methods
This cross-sectional study
involved 210 postmenopausal women of Vietnamese background, aged between 50
and 85 years, who were randomly sampled from various districts in Ho Chi Minh
City (Vietnam). Whole body scans, femoral neck, and lumbar spine BMD were measured
by DXA (QDR 4500, Hologic Inc., Waltham, MA). Lean mass (LM) and fat mass
(FM) were derived from the whole body scan. Furthermore, lean mass index
(LMi) and fat mass index (FMi) were calculated as ratio of LM or FM to body
height in metre squared (m2).
Results
In multiple linear regression
analysis, both LM and FM were independent and significant predictors of BMD
at the spine and femoral neck. Age, lean mass and fat mass collectively
explained 33% variance of lumbar spine and 38% variance of femoral neck BMD.
Replacing LM and FM by LMi and LMi did not alter the result. In both
analyses, the influence of LM or LMi was greater than FM and FMi. Simulation
analysis suggested that a study with 1000 individuals has a 78% chance of
finding the significant effects of both LM and FM, and a 22% chance of
finding LM alone significant, and zero chance of finding the effect of fat
mass alone.
Conclusions
These data suggest that both
lean mass and fat mass are important determinants of BMD. For a given body
size -- measured either by lean mass or height -- women with greater fat mass
have greater BMD.
|
Bản tóm lược dưới đây là một
abstract tiêu biểu không có tiêu đề (LT Ho-Pham, et al. Similarity in
percent body fat between white and Vietnamese women: implication for a
universal definition of obesity. Obesity 2010;18:1242-6).
Toàn bộ bản tóm lược chỉ là một đoạn văn. Nhưng nếu chú ý kĩ sẽ thấy những
thông tin được trình bày trong abstract tuân thủ theo cấu trúc IMRAD. Phần
dẫn nhập gồm 2 câu văn: câu đầu tiên nêu vấn đề nghiên cứu; câu thứ hai phát biểu
mục đích nghiên cứu. Các câu kế tiếp mô tả phương pháp nghiên cứu, kết quả,
và kết luận.
It has been widely assumed that
for a given BMI, Asians have higher percent body fat (PBF) than whites, and
that the BMI threshold for defining obesity in Asians should be lower than
the threshold for whites. This study sought to test this assumption by comparing
the PBF between US white and Vietnamese women. The study was designed as a
comparative cross-sectional investigation. In the first study, 210 Vietnamese
women ages between 50 and 85 were randomly selected from various districts in
Ho Chi Minh City (Vietnam). In the second study, 419 women of the same age
range were randomly selected from the Rancho Bernardo Study (San Diego, CA).
In both studies, lean mass (LM) and fat mass (FM) were measured by
dual-energy X-ray absorptiometry (DXA) (QDR 4500; Hologic). PBF was derived
as FM over body weight. Compared with Vietnamese women, white women had much
more FM (24.8 +/- 8.1 kg vs. 18.8 +/- 4.9 kg; P or=30, 19% of US white women
and 5% of Vietnamese women were classified as obese. Approximately 54% of US
white women and 53% of Vietnamese women had their PBF >35% (P = 0.80).
Although white women had greater BMI, body weight, and FM than Vietnamese
women, their PBF was virtually identical. Further research is required to
derive a more appropriate BMI threshold for defining obesity for Asian women.
|
Tuần qua tôi đã bàn về cách đặt tựa
đề bài báo và các viết một abstract; tuần này, tôi sẽ chỉ cách viết phần dẫn nhập
(introduction hay background). Phần dẫn nhập là phần tương đối quan trọng,
vì nó nói lên kiến thức của tác giả đến đâu trong chuyên ngành. Người
kinh nghiệm chỉ cần đọc qua phần dẫn nhập có thể đánh giá sơ qua về khả năng của
tác giả đến đâu, có cập nhật hóa kiến thức như thế nào, và kĩ năng viết lách ra
sao (chỉ nhìn qua cách dùng thuật ngữ là có thể đoán được).
Do đó, tác giả cần phải nhân cơ hội
viết phần dẫn nhập để thuyết phục người đọc và chứng minh cho họ thấy rằng mình
cũng “biết câu chuyện”. Tôi sẽ lấy vài ví dụ để minh họa cho phần này, và
để giữ khách quan, tôi sẽ không nêu tên tác giả.
Dẫn nhập (introduction)
Trong phần này, tác giả cẩn phải
trả lời câu hỏi “Tại sao làm nghiên cứu này?” (Why did you do this
study?) Phần dẫn nhập phải cung cấp những thông tin sau đây: (a) định
nghĩa vấn đề; (b) những gì đã được làm để giải quyết vấn đề; (c) tóm lược những
kết quả trước đã được công bố trong y văn; (d) và mục đích của nghiên cứu này
là gì.
Đối với các tập san y khoa lớn và
tổng quát (như New England Journal of Medicine, JAMA, Annals of Internal
Medicine, v.v…) thì định nghĩa vấn đề rất quan trọng, bởi vì độc giả khác
ngành có thể nắm được vấn đề và biết được tác giả đứng trên góc độ nào.
Chẳng hạn như một nghiên cứu về gene và loãng xương, thì đoạn đầu tiên có
thể nên (a) định nghĩa loãng xương là gì (vì nhiều người vẫn chưa rành), (b) tầm
quan trọng của loãng xương ra sao (câu này để nhấn mạnh đây là vấn đề lớn, và
vì lớn nên phải công bố trên các tập san lớn!) Chẳng hạn như, tác giả có
thể viết “Osteoporosis is a disease characterized by low bone mass and
deteriorated bone architecture which ultimately lead to increased
susceptibility of fragility fracture.” Câu kế tiếp sẽ nói tầm quan trọng
của gãy xương như thế nào, như tăng nguy cơ tử vong, tái gãy xương, giảm chất
lượng cuộc sống, v.v… Nhưng đối với các tập san chuyên ngành loãng xương và nội
tiết, thì câu định nghĩa trên có khi … khôi hài. Khôi hài là vì đại đa số
độc giả các tập san đó đều biết loãng xương là gì, và họ sẽ thấy khó chịu nếu
tác giả “lên lớp” họ về một định nghĩa sơ đẳng! Thông thường, những tác
giả viết câu định nghĩa trong các tập san chuyên ngành là nghiên cứu sinh, chứ
chuyên gia cấp cao hơn không ai viết như thế.
Trong phần dẫn nhập, tác giả cần
phải nêu cho được tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu. Để nêu tầm quan
trọng, tác giả có thể trình bày những thông tin như tần số của bệnh
(prevalence) trong cộng đồng, hệ quả của bệnh đến nguy cơ tử vong, tăng nguy cơ
mắc các bệnh khác (biến chứng), ảnh hưởng của bệnh đến nền kinh tế nước nhà, giảm
chất lượng cuộc sống. Chẳng hạn như câu “In postmenopausal women, one in
three women will sustain a fragility fracture during their remaining lifetime”
là một cách nêu lên qui mô của vấn đề gãy xương; nhưng để nêu hệ
quả thì có thể viết một câu khác như “Fragility fracture is associated with
increased risk of pre-mature mortality” (câu này nhấn mạnh “pre-mature
mortality”, tức là chết sớm!) nên sẽ gây chú ý.
Trong phần điểm qua y văn, tác giả
cần phải trình bày những thông tin cơ bản để cho người đọc nắm được vấn đề, ý
nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề, và hiểu mục tiêu của công trình nghiên cứu.
Chỉ nên trình bày những thông tin có liên quan trực tiếp đến vấn đề, chứ không
nên điểm qua những thông tin gián tiếp.
Phần lớn những ý tưởng trong phần
dẫn nhập xuất phát từ y văn, tức những công trình đã công bố trước đây.
Khi điểm qua y văn, nên giới hạn trong những nghiên cứu đã công bố trong vòng 5
năm trở lại đây, tránh những nghiên cứu đã trên 20 năm hay tránh những thông
tin trong sách giáo khoa vì có thể những thông tin như thế không còn hợp thời nữa.
Tuy trình bày thông tin quá khứ, nhưng phải là những câu chữ của chính tác giả,
chứ không phải trích dẫn quá nhiều hay lặp lại câu chữ của người đi trước.
Tất cả những thông tin trong phần dẫn nhập phải ăn khớp với tài liệu tham khảo.
Tác giả nên có những tài liệu tham khảo đó, chứ không nên trích dẫn theo những
những bài báo trong y văn (secondary citation).
Cách viết
Về mặt cấu trúc, phần dẫn nhập
bao gồm một số đoạn văn không cần tiêu đề (heading). Tuy nhiên, để viết tốt
phần dẫn nhập, kinh nghiệm của tôi cho thấy cần phải chú ý đến một số điểm căn
bản sau đây:
(a) Không nên viết quá dài.
Viết quá dài rất dễ làm cho người đọc sao lãng vấn đề chính, và có khi làm mất
thì giờ người đọc phải đọc những thông tin không cần thiết.
(b) Không nên điểm qua y văn theo
kiểu viết sử. Phần lớn những người đọc bài báo là đồng nghiệp chúng ta,
cho nên họ đã có một số kiến thức cơ bản. Do đó, tác giả không cần phải
điểm qua y văn từ thời Hippocrate hay Khổng Tử, cũng không cần phải “lên lớp”
[hay khoe với] người đọc về những khái niệm cơ bản mà người làm trong ngành phải
biết. Một điều quan trọng là những thông tin trình bày trong phần dẫn nhập
phải có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
(c) Phần dẫn nhập phải phát biểu
mục đích nghiên cứu. Đoạn văn cuối của phần dẫn nhập là nơi để tác giả,
sau khi điểm qua vấn đề và y văn, phát biểu mục đích của công trình nghiên cứu.
Cố gắng duy trì nguyên tắc “từ tổng quan đến cụ thể”, tức là trong phần phát biểu
vấn đề thì câu văn mang tính chung chung, nhưng phần mục đích thì phải cụ thể.
Trong nhiều trường hợp, trước phần mục đích, tác giả nên phát biểu giả thuyết
nghiên cứu. Chẳng hạn như “We hypothesize that blah blah blah”, rồi một
câu kế tiếp “This study was designed to test the hypothesis by addressing the
following specific aims: blah blah blah”.
(d) Về văn phạm, phần dẫn nhập
nên viết bằng thì quá khứ, nhất là khi mô tả những kết quả trong quá
khứ. Tuy nhiên, khi đề cập đến những thông tin mang tính cổ điển mà được
cộng đồng chuyên ngành chấp nhận, tác giả có thể dùng thì hiện tại.
Một vài ví dụ
Trong bài báo sau đây, tác giả viết
phần dẫn nhập một cách ngắn gọn, chỉ 1 đoạn văn, nhưng cung cấp đầy đủ thông
tin cần thiết để bạn đọc biết vấn đề.
Fragility fracture is a
serious public health problem, because it is prevalent in the elderly and is
associated with increased risk of mortality [1]. Measurement of bone mineral
density predicts subsequent risk of fractures among the elderly [2-4].
However, bone mineral density in later decades of life is a dynamic function
of peak bone mass achieved during growth and its subsequent age-related rate
of loss [5]. It has been estimated that over a lifetime, a typical woman
loses about half of her trabecular bone and one third of her cortical bone
[6], although some women experience greater loss than others.
It is not clear whether the
rate of bone loss is an independent risk factor for osteoporotic fractures.
We hypothesized that patients with excessive bone loss are at increased risk
of fracture. The present study was designed to test the hypothesis by
assessing the contribution of bone loss to the risk of osteoporotic fractures
in elderly women
|
Câu đầu (Fragility fracture
is a serious public health problem, because it is prevalent in the elderly and
is associated with increased risk of mortality) tác giả định nghĩa vấn đề và cố
gắng thuyết phục rằng gãy xương là vấn đề nghiêm trọng vì làm tăng nguy cơ tử
vong.
Trong câu thứ hai (Measurement of
bone mineral density predicts subsequent risk of fractures among the elderly)
tác giả cho biết mật độ xương là một yếu tố tiên lượng gãy xương.
Hai câu kế tiếp (However, bone
mineral density in later decades of life is a dynamic function of peak bone
mass achieved during growth and its subsequent age-related rate of loss. It has
been estimated that over a lifetime, a typical woman loses about half of her
trabecular bone and one third of her cortical bone [4], although some women
experience greater loss than others) tác giả cho biết mật độ xương thay đổi
thay độ tuổi, và tùy thuộc vào hai thông số: mật độ xương tối đa trong thời
“xuân thì”, và tỉ lệ mất xương sau thời kì mãn kinh.
Câu kế tiếp tác giả cung cấp
thông tin cụ thể hơn, cho biết một phụ nữ trung bình mất khoảng 50% xương xốp
và 1/3 xương đặc, và tỉ lệ mất xương dao động lớn giữa các phụ nữ. Câu
văn thứ tư (It is not clear whether the rate of bone loss is an independent
risk factor for osteoporotic fractures) cho chúng ta biết khoảng trống trong y
văn: đó là chưa ai biết tỉ lệ mất xương có liên quan gì đến gãy xương hay
không.
Sau khi đặt vấn đề, tác giả phát
biểu giả thuyết nghiên cứu (We hypothesized that patients with excessive bone
loss are at increased risk of fracture), và mục đích nghiên cứu (The present
study was designed to assess the contribution of bone loss to the risk of
osteoporotic fractures in elderly women.)
Đây là một dẫn nhập có thể nói là
rất logic, vì ý tưởng nối kết nhau. Câu văn đầu cho đến câu văn cuối là một
vòng tròn khép kín. Có lẽ cái hay của tác giả là chỉ tóm gọn phần dẫn nhập
trong một đoạn văn duy nhất với 114 từ! Viết dẫn nhập ngắn gọn và súc
tích như thế đòi hỏi kinh nghiệm chuyên môn tốt và cách dùng chữ một cách chiến
lược.
Nhưng nếu chúng ta xem xét phần dẫn
nhập sau đây:
It is well recognised that
nonsocomial infection is associated with an increase in morbidity and
mortality together with a significant economic cost [1]. Patients in
Intensive Care units develops nonsocomial infections more frequently than
other hospitalised patients [2]. This is a result of severity of illness,
multiple exposure to invasive procedures and multiple therapies [3]. Patients
in surgical and orthopaedic wards are also at a high risk of developing
nonsocomial infections. These patients are exposed to various invasive
procedures (including surgical wounds) which may be similar to those in ICU.
Because of the expected differences in the nature of risk factors, patients'
illnesses in the therapeutic and infection control measures in the above
wards, it was necessary to conduct a study to assess the nonsocomial
infection rates.
|
Cách viết này không tệ, nhưng khó
có thể xem là tốt. Câu văn đầu tiên (It is well recognised that
nonsocomial infection is associated with an increase in morbidity and mortality
together with a significant economic cost [1]) tác giả cho biết vấn đề
quan trọng vì liên quan đến tử vong và tốn kém. Những câu văn sau,
tác giả cố gắng giải thích vấn đề nhiễm trùng ở bệnh nhân cấp cứu và bệnh nhân
qua phẫu thuật chấn thương chỉnh hình, mà họ nghĩ rằng có cùng nguy cơ.
Tuy nhiên, tác giả không cho biết vấn đề là gì, đã có ai nghiên cứu gì, và khoảng
trống của tri thức là gì. Ấy thế mà đến câu văn kế tiếp, tác giả giải
thích lí do cho nghiên cứu! (Because of the expected differences in the nature
of risk factors, patients' illnesses in the therapeutic and infection control
measures in the above wards, it was necessary to conduct a study to assess the
nonsocomial infection rates). Thật ra, mục đích nghiên cứu cũng chưa rõ
ràng, vì tác giả không phát biểu giả thuyết làm nền tảng cho nghiên cứu là
gì. Sau khi đọc xong phần dẫn nhập, có lẽ người đọc không biết ý nghĩa và
tầm quan trọng của nghiên cứu này ra sao. Thật vậy, tác giả chưa thuyết
phục độc giả tại sao họ đã thực hiện công trình nghiên cứu! Nên tránh
cách viết như thế này.
Đoạn văn dưới đây cũng là phần dẫn
nhập của một bài báo trên một tập san toán ở Việt Nam. Bài báo này thật
ra không phải là một công trình nghiên cứu toán, mà là một bài viết về lịch sử
phát triển bộ môn toán có tên là “complex analysis” (chưa biết dịch sang tiếng
Việt là gì) ở Việt Nam.
In the development of
contemporary mathematics in Vietnam complex analysis occupies a special
place. In this note we give a brief survey of the development of complex
analysis in Vietnam. We describe how complex analysis in Vietnam developed
under very special conditions: the anti-French resistance, the struggle for
the reunification of the country, the American war, the economic crisis, and
the change toward a market economy.
|
Đứng trên quan điểm viết báo khoa
học, phần dẫn nhập này chưa đạt. Tạm bỏ qua những sai sót về tiếng Anh và
văn phạm tiếng Anh (khá hiển nhiên), có thể thấy rằng các câu văn không mang
tính nối tiếp và khúc chiếc. Trong câu văn đầu, tác giả không nêu vấn đề
là gì, mà đi thẳng vào vị trí đặc biệt của complex analysis ở Việt Nam.
Nhưng câu thứ hai thì không thấy tac giả nói “đặc biệt” như thế nào; thay
vào đó, tác giả giới thiệu nội dung bài viết! Đến câu thứ 3 thì chúng ta
mới biết “đặc biệt” là gì (là phát triển trong bối cảnh chiến tranh). Nói
cách khác, phần dẫn nhập này chưa đạt, vì chưa nói lên được vấn đề, chưa trả lời
câu hỏi tại sao phải có bài báo này. Cách trình bày ý tưởng cũng chưa mạch
lạc. Nên tránh cách viết này.
Có người nghĩ rằng chỉ cần viết
ngắn gọn, nhưng đối với “văn chương khoa học” thì tôi nghĩ quan điểm đó không
đúng. Viết phần dẫn nhập quá ngắn làm cho người đọc cảm nhận rằng tác giả
thiếu suy nghĩ sâu, thiếu ý tưởng, hay thiếu thông tin (nên chẳng biết viết/nói
gì thêm). Viết dài quá thì độc giả lại nghĩ tác giả có lẽ do thiếu ý tưởng
nên cố tình kéo dài câu chuyện! Do đó, cách viết dẫn nhập tốt nhất là vừa
đủ, không qúa dài và cũng không quá ngắn. Theo kinh nghiệm của tôi, phần
dẫn nhập của một bài báo y khoa chỉ nên giới hạn trong vòng 1 trang A4.
Điều quan trọng nhất là sau khi đọc xong phần dẫn nhập, người đọc biết được tầm
quan trọng của nghiên cứu, và tại sao tác giả làm nghiên cứu. Được như thế
thì có thể xem như tác giả đã “đạt” được một mục tiêu của mình: đó là làm cho
người đọc phải đọc phần kế tiếp (phần Phương pháp).
Có lẽ phần quan trọng nhất của một
bài báo khoa học là phần phương pháp. Kinh nghiệm làm biên tập của tôi
cho thấy tập san tôi tham gia phụ trách trong ban biên tập (tập san Journal
of Bone and Mineral Research) từ chối khoảng 75% những bài báo gửi đến; trong số
bài báo bị từ chối, gần 70% là do khiếm khuyết trong phần phương pháp.
Tôi đã thấy và đọc rất nhiều bài báo gửi đến cho tập san mà kết quả rất thú vị,
nhưng đành phải từ chối vì phần phương pháp được mô tả quá sơ sài, hay mô tả một
cách xem thường người đọc. Có thể tác giả không có ý xem thường ai, nhưng
vì cách viết và trình bày chưa đạt chuẩn mực nên gây ra ấn tượng đó.
Trong phần 3 này, tôi sẽ chỉ các bạn viết phần phương pháp một cách chuẩn mực
và chắc chắn sẽ không bị ai phê bình là … viết dở. :-)
Phương pháp (Methods)
Phần phương pháp nghiên cứu có lẽ
là phần quan trọng nhất trong một bài báo khoa học. Khoảng 70% bài báo
khoa học bị từ chối chỉ vì phương pháp nghiên cứu không thích hợp hay sai lầm.
Nhiều người đọc có thói quen đọc phương pháp trước, rồi sau đó họ đọc các phần
khác. Nếu họ thấy phương pháp nghiên cứu có chất lượng, họ sẽ đọc tiếp; nếu
không, họ sẽ bỏ qua một bên! Do đó, đây là phần mà tác giả cần phải đầu
tư nhiều thì giờ để viết cho “đạt”.
Trong phần phương pháp, tác giả
phải trả lời cho được câu hỏi: "tác giả đã làm gì” (What did you do?)
Để trả lời câu hỏi này, tác giả phải cung cấp thông tin về thiết kế nghiên cứu,
bệnh nhân (hay đối tượng nghiên cứu), phương pháp đo lường, độ tin cậy và chính
xác của đo lường, phương pháp phân tích dữ liệu. Do đó, phần phương pháp
nghiên cứu có thể có những tiêu đề nhỏ như sau:
Thiết kế nghiên cứu (study
design). Phát biểu ngằn gọn về mô hình nghiên cứu. Đây là câu văn đơn giản,
nhưng nói lên giá trị khoa học của công trình nghiên cứu. Ví dụ: “The
study was designed as a cross-sectional investigation, in which 210 women aged
between 50 and 85 were randomly sampled by the cluster sampling scheme.”
Đối tượng tham gia (Participants).
Thông tin về đặc điểm của đối tượng nghiên cứu đóng vai trò quan trọng để người
đọc có thể đánh giá khả năng khái quát hóa của công trình nghiên cứu. Khi
mô tả đặc điểm đối tượng nghiên cứu, tiêu chuẩn tuyển chọn và tiêu chuẩn loại.
Đôi khi tác giả cần phải các biến số quan trọng như độ tuổi, giới tính, sắc tộc,
trình độ học vấn, tình trạng sức khỏe. Ví dụ: "All women
requesting an IUCD (intrauterine contraceptive device) at the Family Welfare
Clinic, Kenyatta National Hospital, who were menstruating regularly and who
were between 20 and 44 years of age, were candidates for inclusion in the
study. They were not admitted to the study if any of the following
criteria were present: (1) a history of ectopic pregnancy, (2) pregnancy within
the past 42 days, (3) leiomyomata of the uterus, (4) active PID (pelvic
inflammatory disease), (5) a cervical or endometrial malignancy, (6) a known
hypersensitivity to tetracyclines, (7) use of any antibiotics within the past
14 days or long-acting injectable penicillin, (8) an impaired response to
infection, or (9) residence outside the city of Nairobi, insufficient address
for follow-up, or unwillingness to return for follow-up."
Địa điểm và bối cảnh nghiên cứu (setting).
Cần phải cung cấp thông tin về địa điểm mà công trình nghiên cứu được thực hiện,
hay nơi mà dữ liệu được thu thập, bởi vì địa điểm có thể ảnh hưởng đến tính hợp
lí ngoại tại của kết quả nghiên cứu. Chẳng hạn như khi chúng tôi làm
nghiên cứu về vitamin D, chúng tôi phải cung cấp thông tin về thành phố mà mình
thực hiện công trình nghiên cứu. Ví dụ: “The study was designed as a
cross-sectional investigation, in which the setting was Ho Chi Minh City
(formerly Saigon). The City is located at 10°45'N, 106°40'E in the
southeastern region of Vietnam. The City is in the tropic and close to
the sea; therefore it has a tropical climate, with an average humidity of
75%. There are only two distinct seasons: the rainy season, with an
average rainfall of about 1,800 millimetres annually (about 150 rainy days
per year), usually begins in May and ends in late November; the dry season
lasts from December to April. The average temperature is 28°C (82°F), the
highest temperature sometimes reaches 39°C (102°F) around noon in late April,
while the lowest may fall below 16°C (61°F) in the early mornings of late
December.”
Qui trình nghiên cứu (Procedures).
Trong phần này, tác giả phải tóm lược từng bước nghiên cứu, kể cả những chỉ dẫn
cho đối tượng nghiên cứu như thế nào. Việc phân nhóm trong nghiên cứu,
chi tiết về can thiệp hay điều trị (nếu có). Nếu công trình có liên quan
đến ngẫu nhiên hóa, tác giả cần phải mô tả cụ thể qui trình ngẫu nhiên hóa
(randomization) như thế nào, kĩ thuật gì đã được sử dụng để đảm bảo các nhóm
cân đối, v.v…
Ví dụ: Patients with
psoriatic arthritis were randomized to receive placebo or etanercept (Enbrel)
at a dose of 25 mg twice weekly by subcutaneous administration for 12 weeks ...
Etanercept was supplied as a sterile, lyophilized powder in vials containing 25
mg etanercept, 40 mg mannitol, 10 mg sucrose, and 1-2 mg tromethamine per
vial. Placebo was identically supplied and formulated except that it
contained no etanercept. Each vial was reconstituted with 1 mL
bacteriostatic water for injection.
Ngoài ra, tác giả phải mô tả cẩn
thận kĩ thuật đo lường được sử dụng trong nghiên cứu, như tên của máy, model
gì, software phiên bản nào, và nơi sản xuất. Cần phải mô tả điều kiện
(nhiệt độ, ánh sáng) trong khi đo lường, cũng như các hệ số về độ tin cậy và độ
chính xác của kĩ thuật đo lường.
Ví dụ: Blood pressure
(diastolic phase 5) while patient was sitting and had rested for at least five
minutes was measured by a trained nurse with a Copal UA-251 or a Takeda UA-751
electronic ausculatory blood pressure reading machine (Andrew Stephens,
Brighouse, West Yorkshire) or with a Hawksley random zero sphygmomanometer
(Hawksley, Lancing, Sussex) in patients with atrial fibrillation. The
first reading was discarded and the mean of the next three consecutive readings
with a coefficient of variation below 15% was used in the study, with
additional readings if required.
Định nghĩa chỉ tiêu lâm sàng (measurements
of endpoints). Một công trình nghiên cứu lâm sàng phải có một endpoint
hay outcome, mà tôi tạm dịch là “chỉ tiêu lâm sàng”, là cái làm thước đo của một
thuật can thiệp. Do đó, tác giả cẩn phải định nghĩa rõ ràng chỉ tiêu lâm
sàng của công trình nghiên cứu là gì, và nhất là phương pháp đo lường (như vừa
đề cập) ra sao. Thông thường, một nghiên cứu có 2 chỉ tiêu lâm sàng mà tiếng
Anh gọi là “primary endpoint” (chỉ tiêu chính) và “secondary endpoint” (chỉ
tiêu phụ).
Ví dụ: The primary
endpoint with respect to efficacy in psoriasis was the proportion of patients
achieving a 75% improvement in psoriasis activity from baseline to 12 weeks as
measured by the PASI (psoriasis area and severity index). Additional
analyses were done on the percentage change in PASI scores and improvements in
target psoriasis lesions.
Nên nhớ rằng ở phần này tác giả
chỉ mô tả những biến có liên quan đến bài báo, chứ không phải mô tả tất cả những
biến đã được thu thập trong công trình nghiên cứu. Chẳng hạn như nếu bài
báo chỉ nói về mật độ xương, thì tác giả không cần phải nói đến gãy xương (vì
hai biến này rất khác nhau). Nguyên tắc là: chỉ mô tả những gì có liên
quan đến phần kết quả.
Cỡ mẫu (Sample Size).
Cỡ mẫu là một yếu tố rất quan trọng trong một nghiên cứu lâm sàng. Thông
thường, các nghiên cứu randomized controlled trial (RCT) phải có một câu văn mô
tả cách tính cỡ mẫu. Không phải là công thức tính (như tôi thấy nhiều bài
báo ở Việt Nam), mà là những giả định đằng sau cách tính. Điều này quan
trọng, vì qua giả định, người đọc có thể đánh giá khả năng mà công trình nghiên
cứu có thể giải quyết câu hỏi đặt ra trong phần dẫn nhập.
Ví dụ: We consider
that the incidence of symptomatic deep venous thrombosis or pulmonary embolism
or death would be 4% in the placebo group and 1.5% in the ardeparin sodium
group. Based on 0.9 power to detect a significant difference (p
0.05, two-sided), 976 patients were required for each study group. To
compensate for nonevaluable patients, we planned to enroll 1000 patients in
each group.
Ngẫu nhiên hóa (Randomization).
Trong các công trình nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized
controlled trial hay RCT), bệnh nhân thường được phân nhóm một cách ngẫu nhiên.
Có nhiều cách phân nhóm bằng máy tính và thuật toán, cho nên tác giả có trách
nhiệm phải mô tả rõ phương pháp phân nhóm để người đọc có thế đánh giá chất lượng
của nghiên cứu. Nếu cách phân nhóm có hiệu quả thì kết quả thường cho thấy
các nhóm rất tương đương về các đặc tính lâm sàng. Một ví dụ về cách mô tả
phương pháp phân nhóm có thể thấy trong đoạn văn sau đây: “Women had an equal
probability of assignment to the groups. The randomization code was
developed using a computer random number generator to select random permuted
blocks. The block lengths were 4, 8, and 10 varied randomly.”
Mật hóa (còn gọi là Blinding).
Trong các công trình RCT, có khi cả bác sĩ điều trị và bệnh nhân đều không biết
bệnh nhân mình (hay mình) nằm trong nhóm nào của nghiên cứu. Đây là một
biện pháp nhằm tăng tính khách quan khi đánh giá hiệu quả của can thiệp.
Cũng như ngẫu nhiên hóa có thể thực hiện bằng nhiều thuật toán, cách mật
hóa cũng có thể thực hiện bằng nhiều “thủ thuật”. Cách mô tả thủ thuật đó
có thể tìm thấy trong đoạn văn sau đây:: “All study personnel and
participants were blinded to treatment assignment for the duration of the
study. Only the study statisticians and the data monitoring committee saw
unblinded data but none had any contact with study participants.”
Phân tích dữ liệu (Data
Analysis). Thiết kế và phân tích các nghiên cứu lâm sàng đều cần đến các
phương pháp thống kê. Do đó, phần này tuy là phần cuối trong phần phương
pháp của bài báo khoa học, nhưng nó đóng vai trò rất quan trọng. Tôi từng
phục vụ trong ban biên tập và thấy rất nhiều bài báo và công trình nghiên cứu rất
tốt nhưng vì phân tích sai nên đành phải từ chối. Con số bài báo bị từ chối
vì phân tích sai có khi lên đến 50% (như với tập san JAMA chẳng hạn). Do
đó, trong phần phân tích, tác giả phải phát biểu cho được biến phụ thuộc (hay
endpoints hoặc outcome) là gì, biến độc lập (hay risk factors hoặc covariates)
là gì, và định nghĩa rõ ràng các biến này được xử lí ra sao. Nếu số liệu
đã qua hoán chuyển thì tác giả phải giải thích tại sao. Vì có nhiều
phương pháp phân tích số liệu và kiểm định giả thuyết, nên tác giả còn phải giải
thích tại sao đã chọn phương pháp A mà không là phương pháp B. Đôi khi
tác giả cũng phải nói ra đã dùng software nào cho phân tích. (Nhớ đừng
“khoe” software phân tích mà cơ quan hay cá nhân đã “tậu” một cách bất hợp
pháp!)
Ví dụ về cách viết đoạn văn
này như sau: “All data analysis was carried out according to a pre-established
analysis plan. Proportions were compared by using Chi-squared tests with
continuity correction or Fisher's exact test when appropriate.
Multivariate analyses were conducted with logistic regression. The
durations of episodes and signs of disease were compared by using proportional
hazards regression. Mean serum retinol concentrations were compared by
t-test and analysis of covariance ... Two-sided significance tests were
used throughout. The analysis was performed with the SAS system (SAS
Institute, Inc, Cary, NC, USA.”
Nói chung, phần Phương pháp thường
dài gấp 2 hay 3 lần phần Dẫn nhập. Sẽ không có vấn đề gì nếu tác giả mô tả phần
Phương pháp một cách chi tiết, vì nếu tập san thấy không cần thiết thì họ sẽ cắt
bỏ hay đưa vào phần phụ chú (appendix). Nhưng sẽ là vấn đề nếu tác giả cố
tình mô tả phần Phương pháp một cách mù mờ và vắn tắt, bởi vì người duyệt bài sẽ
nghĩ tác giả hoặc là muốn dấu diếm vấn đề hoặc là thiếu thành thật! Xin
nhắc lại rằng gần 70% bài báo khoa học bị từ chối là do phương pháp không đúng
hay mô tả không đầy đủ. Vì thế, tác giả cần phải hết sức thận trọng trong
phần mô tả Phương pháp nghiên cứu, làm sao nói cho được là “what did you do” (bạn
đã làm gì trong nghiên cứu này).
Trong các phần kế tiếp, tôi sẽ chỉ
cách viết phần kết quả và mô tả các dữ liệu. Thể theo yêu cầu của nhiều bạn
đọc, tôi cũng sẽ cố gắng chỉ ra những chữ, câu văn, những đoạn văn quen thuộc
trong cách viết một bài báo khoa học. Tôi nghĩ những chữ, câu văn và đoạn
văn đặc thù này sẽ rất có ích cho các bạn đang muốn hay trong quá trình “phải
có danh gì với núi sông” (tức là công bố cho được một vài bài báo khoa học để
lưu danh cùng hậu thế :-)).
Tiếp theo phần phương pháp là phần
trình bày kết quả nghiên cứu. Một khó khăn mà phần lớn nghiên cứu sinh mắc
phải là không biết trình bày kết quả ra sao và như thế nào trong đống rừng dữ
liệu thí nghiệm thu thập và phân tích. Vì thế, trong phần này, tôi sẽ chỉ
cho các bạn một vài mẹo nhỏ và cách thức viết phần kết quả sao cho thuyết phục
và nhất là phải ăn khớp với phần dẫn nhập. Đây là phần 4 của loạt bài này, mà
tôi đã "mắc nợ" với rất nhiều bạn nghiên cứu trên thế giới vì trót hứa
là phải "ra lò" mỗi bài một tuần!
Chỉ dẫn chung
Về nguyên tắc, trong phần kết quả, tác
giả phải trả lời cho được câu hỏi “Đã phát hiện những gì?” (Tức là trả lời
câu hỏi "What did you find?") Cần phải phân biệt rõ đâu là
kết quả chính và đâu là kết quả phụ. Phần kết quả phải có biểu đồ và bảng
số liệu, và những dữ liệu này phải được diễn giải một cách ngắn gọn trong văn bản.
Những số liệu phải được trình bày để lần lượt trả lời các mục đích nghiên cứu
(hay câu hỏi nghiên cứu) mà tác giả đã nêu ra trong phần dẫn nhập.
Phần kết quả phải được viết một
cách ngắn gọn và đi thẳng vào vấn đề nêu ra trong phần dẫn nhập. Tất cả
các bảng thống kê, biểu đồ, và hình ảnh phải được chú thích rõ ràng; tất cả những
kí hiệu phải được đánh vần hay chú giải một cách cụ thể để người đọc có thể hiểu
được ý nghĩa của những dữ kiện này. Trong phần kết quả, tác giả chỉ trình
bày sự thật và chỉ sự thật (facts), kể cả những sự thật mà nhà nghiên cứu không
tiên đoán trước được hay những kết quả “tiêu cực” (ngược lại với điều mình mong
đợi). Tác giả không nên bình luận hay diễn dịch những kết quả này cao hay
thấp, xấu hay tốt, v.v.. vì những nhận xét này sẽ được đề cập đến trong
phần thảo luận (Discussion).
Chỉ dẫn cụ thể
Phần kết quả có thể ví von là
“trái tim” của một bài báo khoa học. Cái khó khăn lớn nhất là làm sao
trình bày rất nhiều dữ liệu và phân tích trong vòng vài trang giấy. Thông
thường, tác giả có thể bắt đầu trình bày những dữ liệu đơn giản nhất, những dữ
liệu dễ hiểu nhất, và dần dần cung cấp những dữ liệu phức tạp hơn. Sau đây
là một số chỉ dẫn cụ thể để các bạn có thể trình bày phần kết quả một cách thuyết
phục:
1. Trước hết, sắp
xếp những kết quả quan trọng trong một loạt bảng số liệu và biểu đồ mà tác
giả muốn đưa vào bài báo khoa học. Tác giả nên viết xuống giấy những kết
quả được xem là thú vị, là quan trọng, nhưng chưa có cơ sở vững vàng. Những
kết quả này sẽ là đầu đề để bàn luận sau này. Nếu kết quả nghiên cứu đơn
giản (như bao nhiêu nam, bao nhiêu nữ, độ tuổi trung bình, v.v…), thì không cần
phải trình bày trong bảng số liệu, mà chỉ cần mô tả trong bài báo là đủ.
Nhưng những kết quả mang tính phức tạo thì cần phải cần đến bảng số liệu và biểu
đồ.
Làm sao biết nên chọn cách trình
bày bằng bảng số liệu hay biểu đồ? Kinh nghiệm của tôi cho thấy nếu số liệu
chính xác là quan trọng cho bài báo, thì nên dùng bảng số liệu; nếu xu hướng
(pattern) là quan trọng hơn là độ chính xác thì nên trình bày bằng biểu đồ.
Dù là bảng số liệu hay biểu đồ, cần phải cẩn thận đặt tên và ghi chú cẩn thận,
sao cho người đọc không cần đọc phần chi tiết trong bài báo vẫn có thể nắm được
ý nghĩa của dữ liệu.
Ví dụ: bảng số liệu sau đây có
tiêu đề rõ ràng, chỉ ra năm thu thập dữ liệu, địa điểm, và nội dung của dữ liệu:
Biểu đồ dưới đây, tác giả giải
thích các kí hiệu trong biểu đồ một cách ngắn gọn mà người đọc có thể nắm lấy
những nét chính của mô hình:
Cố nhiên, những bảng số liệu và
biểu đồ bắt buộc phải đề cập trong phần kết quả. Dùng chữ số để đề cập đến
biểu đồ hay bảng số liệu. Ví dụ, nên viết: "An exponential increase
in egg production of Acartia tonsa was found for algal concentrations between
10 and 1,000 cells per ml r2 =0.779, p= 0.05 (Figure 1)", thay vì viết
"Figure 1 shows an exponential increase in egg production of Acartia tonsa
was found for algal concentrations between 10 and 1,000 cells per ml r2 =0.779,
p= 0.05."
2. Phần kết quả nên
trình bày những dữ liệu để “yểm trợ” cho các mục tiêu đề ra trong phần dẫn nhập.Phần
kết quả chính là nơi để tác giả trình bày cái “ca” của mình. Do đó, sự
khúc chiết ở đây rất quan trọng. Tác giả cần phải thuyết phục người đọc rằng
lí giải của mình là logic. Nếu người đọc cảm thấy lẫn lộn do dữ liệu
trình bày, hoặc không thể nào theo dõi những diễn giải của tác giả, họ có thể
không chấp nhận kết luận của tác giả (và đó là một điều nguy hiểm).
Chẳng hạn như tác giả đặt câu hỏi
“chiều cao của nam sinh viên bằng chiều cao của nữ sinh viên theo học ngành
sinh học”, thì việc đầu tiên tác giả phải thu thập chiều cao từ một nhóm sinh
viên được chọn ngẫu nhiên trong các khoa sinh học. Sau đó tác giả tính
toán các chỉ số thống kê (trung bình, độ lệch chuẩn, v.v…) và thể hiện các dữ
liệu này bằng biểu đồ. Giả dụ rằng sau khi phân tích tác giả phát hiện
nam sinh viên cao hơn nữ sinh viên 12.5 cm, và đó chính là câu trả lời cho câu
hỏi nghiên cứu.
Cần phải nhìn vào dữ liệu và suy
nghĩ cẩn thận về ý nghĩa của chúng là gì. Nếu tác giả mà không biết dữ liệu
mình nói gì, thì người đọc cũng khó có thể hiểu được ý nghĩa của dữ liệu.
Một khi tác giả đã biết dữ liệu của mình nói lên ý gì, thì mới có thể thiết kế
một cách trình bày cho thích hợp và rõ ràng.
3. Khi mô tả kết quả
nghiên cứu, cần phải đề cập đến xu hướng khác biệt (directionality) và mức độ
khác biệt (magnitude). Trong phần kết quả, tác giả nên cung cấp
thông tin quan trọng về mối liên hệ, và khác biệt. Hai đặc điểm cần chú ý
là xu hướng và mức độ khác biệt. Chẳng hạn như không nên viết "groups
A and B were significantly different". Câu hỏi đặt ra là khác biệt
như thế nào? Do đó, câu văn trên cần phải viết lại cho có thông tin hơn,
ví dụ như: "Group A individuals were 23% larger than those in Group B",
hay, "Group B patients gained weight at twice the rate of Group A patients."
4. Khi mô tả một bảng
số liệu, tránh cách viết liệt kê. Một bảng số liệu có khi có rất nhiều số
liệu phức tạp, mà tác giả có khi cảm thấy lúng túng không biết nên mô tả số liệu
nào trước, và số liệu nào sau. Nguyên lí là chọn số liệu nào nổi trội,
quan trọng, và có liên quan đến mục tiêu nghiên cứu để trình bày. Nói
chung, khi trình bày bảng số liệu, cần (a) tối thiểu hóa lặp lại những con số
trong bảng số liệu; (b) cung cấp cho độc giả những thông tin bổ sung cho bảng số
liệu (nhưng không có trong bảng số liệu); và (c) cố gắng súc tích.
Ví dụ: "Data from 1194 women
and 761 men, whose BMD measurements were available, were analysed. The
average (and standard deviation, SD) of age for both sexes was 69.5 (6.5) years
old (Table 1), with an above-average concentration of subjects in the younger
age group of 60-69 years (58%), followed by 70-79 years (33%) and 80+ years
(9%). The distribution of body mass index (BMI) in the sample was
normally distributed for both sexes, with mean of 26 (3.6) kg/m2 for men, almost
identical to that of in women (25.4 (4.6) kg/m2). Approximately one-third
of women and 36% of men had BMI greater than 27 kg/cm2. Dietary calcium
intake was skewed toward the lower level, with median for men (592 mg/day) was
not significantly different from women (573 mg/day). In both sexes,
approximately 75% of intakes was below 800 mg/day. Quadriceps strength in
men (33 (13) kg) was significantly higher (p < 0.0001) than women (20 (8)
kg). Physical activity index (PAI) in men was also higher (p < 0.001)
in men (35 + 8.9) compared to women (30 (4.4)); 75% of men and women
had PAI lower than 38 and 32, respectively."
Đối với những bảng số liệu phức tạp,
tác giả cần phải viết vài dòng giải thích trước khi mô tả dữ liệu. Chẳng
hạn như trong bảng số liệu sau đây trình bày về ảnh hưởng của genes và môi trường
đến thành phần cơ thể (body composition) và khối lượng xương:
Trước hết, tác giả giải thích về
mục tiêu một cách ngắn gọn: “To assess whether the observed relationships
between BMD at various sites and body composition were attributable to genetic
or environmental factors, multivariate genetic model-fitting analysis (as
described in Figure 1) was performed.”
Sau đó là giải thích ý nghĩa của
các kết quả trong bảng số liệu: “Squared standardised path coefficients (Table
2) can be interpreted as estimates of heritability of specific and decomposed
in terms of the portion in common with and independent of other genetic
factors. Off-diagonal elements of this analysis were small relative to
diagonal elements, which indicate that the majority of heritability of each
variable trait is due to specific genetic factors.”
Và sau cùng là mô tả dữ liệu
trong bảng số liệu: “The heritability of fat mass in this sample was 0.65,
and the portion of this due to shared genetic factors with lean mass was 0.02,
whereas approximately a third of the environmental variance of FM was due to
shared environment with lean mass. This is consistent with the
non-significant genetic correlation between lean and fat mass (0.16; p = 0.24),
and the significant environmental correlation (0.51; p < 0.001, Table 3)."
5. Tác giả nên báo cáo
kết quả “âm tính” (negative results) – vì đây là những kết quả có khi rất
quan trọng! Đôi khi kết quả thí nghiệm không xảy ra như tác giả tiên lượng
lúc ban đầu, hoặc không phù hợp với giả thuyết nghiên cứu, và tác giả sợ khó
công bố bài báo nên cố tình dấu! Nhưng đó là điều không chấp nhận được
trong khoa học. Những kết quả như thế có thể nói lên rằng giả thuyết
nghiên cứu không đúng và cần phải phát biểu lại, hoặc phương pháp đo lường có vấn
đề, hoặc tác giả đang ngồi trên một khám phá rất quan trọng. Bất cứ lí do
gì, tác giả cần phải thành thật trình bày những kết quả “âm tính”, và đừng bao
giờ nghĩ rằng chỉ vì kết quả không như mình tiên lượng là những “kết quả xấu”.
Nếu tác giả thiết kế công trình nghiên cứu tốt, thì những dữ liệu kết quả đó là
thật, và cần phải được trình bày và diễn giải một cách thích hợp.
Những “không nên” trong phần kết
quả
1. Không nên đưa vào
bài báo những thông tin và dữ liệu “lặt vặt”. Những thông tin không quan
trọng và nhỏ nhặt có thể làm người đọc lạc hướng vấn đề. Chẳng hạn như nếu
trình bày kết quả về mối liên hệ giữa gene và bệnh tiểu đường, không cần phải
trình bày thành phần kinh tế của đối tượng nghiên cứu trong bài báo. Nên
nhớ rằng lúc nào cũng chú tâm đến dữ liệu nhằm yểm trợ cho mục đích đặt ra lúc
ban đầu, chứ không nên tự đi ra ngoài mục tiêu của công trình nghiên cứu!
2. Tránh trình bày một
loạt dữ liệu mà không có ý nghĩa gì lớn hay không diễn giải. Chẳng hạn như
cách viết sau đây là phải tránh: "Hours in sunlight significantly
affected growth (Table 1). Soil moisture significantly affected growth (Table
2). Soil nitrogen also had a significant effect on plant growth (Table 3)."
Thay vì viết như thế, tác giả nên phát triển mỗi ý tưởng trong bài báo: mô tả ảnh
hưởng hay hệ quả; mức độ ảnh hưởng ra sao; và những thông tin liên quan đến đơn
vị so sánh. Một bài báo dài nên có những tiêu đề nhỏ trong phần kết quả để
người đọc có thể theo dõi và đối chiếu với phần phương pháp.
3. Không nên dùng những
tính từ mang tính áp đặt trong phần kết quả. Chẳng hạn như không nên viết
"This difference was highly significant (p = 0.001)," mà chỉ cần đơn
giản viết rằng "This difference was significant (p = 0.001)."
Người đọc sẽ rất khó chịu khi tác giả dùng từ “highly” vì họ xem đó là cách đặt
chữ vào miệng người đọc. Tác giả chỉ nền trình bày con số, dữ liệu; người
đọc sẽ đánh giá dữ liệu đó cao hay thấp.
4. Không nên diễn giải
dữ liệu trong phần kết quả. Những bình luận như "the data suggest
that ...." chẳng có ý nghĩa gì cả, mà còn mang tiếng là nhét chữ vào miệng
người đọc! Phần diễn giải dữ liệu nên để dành cho phần bàn luận
(discussion); trong phần kết quả, tác giả chỉ trình bày sự thật.
5. Phân tích không chỉ
dạy điều gì cả. Nhiều tác giả phạm phải những lỗi lầm sơ đẳng như câu
"The ANOVA showed that.…" Phương pháp phân tích thống kê không
“show”, không chỉ cái gì cả; tác giả mới chính là người “chỉ” ra kết quả đó có
ý nghĩa gì!
Vài lới khuyên về văn phong trong
phần kết quả
1. Về cách viết trong
phần kết quả, nên dùng thì quá khứ và thể thụ động (passive voice). Phần
lớn các tập san y khoa và khoa học nói chung yêu cầu tác giả dùng thì quá khứ để
báo cáo những kết quả thí nghiệm. Tuy phần lớn các bài báo đều viết theo
thể thụ động, nhưng cũng có một số ít tập san (như Lancet và New
England Journal of Medicine) yêu cầu tác giả viết theo thể chủ động (active
voice).
Ví dụ dưới đây nhấn mạnh đến xu
hướng (trend) và sự khác biệt mà tác giả muốn người đọc tập trung vào:
“The duration of exposure to
running water had a pronounced effect on cumulative seed germination
percentages (Fig. 2). Seeds exposed to the 2-day treatment had the highest
cumulative germination (84%), 1.25 times that of the 12-h or 5-day groups and 4
times that of controls.”
Ngược lại, trong ví dụ dưới đây,
tác giả ngầm diễn giải số liệu và muốn “lôi kéo” người đọc tin vào mô hình / ý
tưởng của tác giả.
“The results of the germination
experiment (Fig. 2) suggest that the optimal time for running-water treatment
is 2 days. This group showed the highest cumulative germination (84%), with
longer (5 d) or shorter (12 h) exposures producing smaller gains in germination
when compared to the control group.”
2. Khi trình bày các kết
quả phân tích thống kê mang tính mô tả (như tên của test, trị số P) nên viết
trong ngoặc cùng với kết quả chính mà các phương pháp test “yểm trợ”. Chẳng
hạn như chiều cao của nam sinh viên cao hơn nữ sinh viên, tác giả có thể viết
như sau:
"Men (180.5 ± 5.1 cm; n=34)
averaged 12.5 cm taller than women (168 ± 7.6 cm; n=34) in the AY pool of
Biology majors (two-sample t-test, t = 5.78, 33 d.f., p < 0.001)."
Nếu các số liệu thống kê được
trình bày trong một biểu đồ, câu văn trên có thể viết lại như sau:
"Men averaged 12.5 cm taller
than women in the AY 1995 pool of Biology majors (two-sample t-test, t = 5.78,
33 d.f., p < 0.001; Figure 1)."
Chú ý rằng các kết quả chính
trình bày ngoài dấu ngoặc, còn kết quả phân tích thống kê thì trình bày trong dấu
ngoặc.
3. Luôn luôn trình bày đơn vị
đo lường (không có gì đáng “ghét” hơn là đọc một dữ liệu mà không biết đơn vị
đo lường là gì!). Đối với giá trị đơn, tác giả có thể viết "the mean
length was 10 m", or, "the maximum time was 140 min". Khi
báo cáo các chỉ số về dao động và khác biệt, nên viết rõ dấu phía sau là SD hay
SE: “10 ± 2.3 m (mean ± SD)". Tương tự, đặt đơn vị đo lường sau cùng
trong dãy số liệu có cùng đơn vị đo lường, ví dụ như: "lengths of 5, 10,
15, and 20 m", or "no differences were observed after 2, 4, 6, or 8
min. of incubation".
Tuy đóng vai trò “trái tim” của một
bài báo khoa học, phần kết quả cũng chỉ dài khoảng 2-3 trang. Do đó, việc
chọn dữ liệu để trình bày cũng như kĩ thuật viết rất quan trọng trong việc viết
phần kết quả cho đầy đủ và thuyết phục. Hi vọng rằng những hướng dẫn trên
đây giúp cho các bạn soạn bài báo khoa học hay luận án tốt hơn. Cố nhiên,
những hướng dẫn này thích hợp cho ngành y khoa và sinh học, có thể không hẳn
thích hợp cho các ngành khác như kinh tế học chẳng hạn. Tuy nhiên, về
nguyên tắc, tôi nghĩ cách viết cũng không khác nhau mấy giữa các ngành khoa học
thực nghiệm.
Phần Bàn luận (Discussion) là phần
cuối của nội dung của một bài báo khoa học, và nó có chức năng giống như là một
diễn giải kết quả nghiên cứu. Chúng ta đã biết rằng phần Dẫn nhập trả lời
câu hỏi “Tại sao làm nghiên cứu này”; phần Phương pháp trả lời câu hỏi “Đã làm
gì và làm ra sao”; phần Kết quả là nhằm trả lời câu hỏi “Đã phát hiện những gì”;
và phần Bàn luận tập trung vào trả lời cho được câu hỏi “Những phát hiện đó có
ý nghĩa gì”?
Trong bài báo khoa học, phần Bản
luận là phần khó viết nhất. Các nghiên cứu sinh khi mới bắt đầu viết thường
lúng túng không biết bắt đầu như thế nào, mà đọc những bài báo trong y văn thì
cũng không nắm được nội dung và cấu trúc ra sao. Ngay cả nhiều giáo sư có
kinh nghiệm cũng có khi cảm thấy khó khăn khi viết phần Bàn luận, vì họ không
biết nhấn mạnh vào khía cạnh nào, và viết như thế nào cho thuyết phục. Một
trong những khó khăn lớn nhất là phần Bàn luận không có một cấu trúc cụ thể
nào. Thật vậy, trong khi phần Phương pháp và Kết quả còn có cấu trúc, còn
phần Bàn luận thì tác giả có thể viết bất cứ gì mình thích (nhưng người đọc có
thích hay không là chuyện khác!)
Tuy không có qui định cấu trúc cụ
thể, nhưng chúng ta có thể học từ bài báo hay để đi đến một qui luật.
Kinh nghiệm của tôi cho thấy những bài báo hay thường viết phần bàn luận theo cấu
trúc 6 điểm sau đây:
(a) tóm lược giả thuyết, mục
tiêu, và phát hiện chính trong đoạn văn đầu tiên;
(b) so sánh những kết quả này với
các nghiên cứu trước;
(c) giải thích kết quả bằng cách
đề ra mô hình mới hay giả thuyết mới;
(d) khái quát hóa và ý nghĩa của
kết quả;
(e) bàn qua những ưu điểm và khuyết
điểm của công trình nghiên cứu; và
(f) và sau cùng là một kết luận
sao cho người đọc có thể lĩnh hội được một cách dễ dàng.
Trong phần thảo luận, tác giả phải
giải thích, hay đề nghị một mô hình giải thích, tại sao những dữ kiện thu thập
được có xu hướng đã quan sát trong cuộc nghiên cứu. Nếu không giải thích
được thì nhà nghiên cứu phải thành thật nói y như thế: không biết. Tác giả
còn phải so sánh với kết quả của những nghiên cứu trước và giải thích tại sao
chúng (những kết quả) khác nhau, hay tại sao chúng lại giống nhau, và ý nghĩa của
chúng là gì. Ngoài ra, nhà nghiên cứu còn phải có trách nhiệm tự mình vạch
ra những thiếu sót, những trắc trở, khó khăn trong cuộc nghiên cứu, cùng những
ưu điểm của cuộc nghiên cứu, cũng như đưa ra các giải pháp khắc phục hay những
đề xuất hướng nghiên cứu trong tương lai. Sơ đồ 2 sau đây có thể
dùng để làm dàn bài để viết phần thảo luận.
Sơ đồ cho phần thảo luận
Câu hỏi cần phải trả lời
|
Nội dung
|
Phát hiện chính là gì?
|
Phát biểu những phát hiện
chính; đặt những phát hiện này vào bối cảnh của các nghiên cứu trước đây.
|
Kết quả có nhất quán
(consistent) với nghiên cứu trước?
|
Giải thích tại sao không nhất
quán. Có phải do vấn đề địa phương, bệnh nhân, chẩn đoán, đo lường,
phân tích, v.v… Phải suy nghĩ và giải thích.
|
Giải thích tại sao có kết quả
như trong nghiên cứu, mối liên hệ đó có phù hợp với giả thuyết?
|
Đây là đoạn văn khó nhất, vì
tác giả phải suy nghĩ, vận dụng kiến thức hiện hành, và tìm mô hình để giải
thích kết quả nghiên cứu của mình. Nếu kết quả là một mối tương quan
(như gien và bệnh), phải thuyết phục người đọc rằng mối tương quan này không
phải ngẫu nhiên, mà có cơ chế sinh học. Bàn về cơ chế của mối liên hệ một
cách thuyết phục bằng cách sử dụng các nghiên cứu trước hay đề ra giả thuyết
mới.
|
Ý nghĩa của kết quả nghiên cứu
là gì?
|
Đây là phần “generalization”,
khái quát hóa. Đặt kết quả của nghiên cứu vào bối cảnh lớn hơn, và so
sánh với các nghiên cứu trước đây. Suy luận về cơ chế (nhưng không nên
quá lời hay quá xa xỉ trong khi suy luận, mà phải nằm trong khuôn khổ của dữ
kiện thật).
|
Phát hiện đó có khả năng sai lầm
không? Điểm mạnh và khiếm khuyết của nghiên cứu là gì?
|
Xem xét những yếu tố sau đây:
thiếu khách quan trong đo lường và thu thập số liệu? Số lượng đối tượng ít?
Cách chọn mẫu có vấn đề? Các yếu tố khác chưa xem xét đến? Phân tích chưa đầy
đủ? Chưa điều chỉnh cho các yếu tố phụ? V.v…
|
Kết luận có phù hợp với dữ kiện
hay không?
|
Kết luận phải rõ ràng, nhưng
không nên đi ra ngoài khuôn khổ của dữ kiện. Chẳng hạn như nếu kết quả
cho thấy hút thuốc lá làm tăng ung thư phổi, tác giả không nên kết luận rằng
ngưng hút thuốc lá sẽ giảm ung thư phổi.
|
1. Mở đầu phần bàn luận
bằng cách tóm tắt bối cảnh, giả thuyết, mục tiêu và phát hiện chính của nghiên
cứu.Đây thực chất là một đoạn văn tóm tắt những ý chính trong phần dẫn nhập và
kết quả để một lần nữa nhấn mạnh rằng giả thuyết của tác giả đã được “minh chứng”.
Người đọc cảm thấy dễ theo dõi khi những kết quả chính được tóm lược trong phần
mở đầu của bàn luận. Do đó, tác giả cần phải viết ra kết quả bằng con số
(có thể lặp lại ở phần kết quả) để nhấn mạnh. Chú ý rằng, một bài báo
khoa học đôi khi cũng cần “điệp khúc” để nhấn mạnh, nhưng đừng có quá nhiều điệp
khúc như nhạc vì sẽ gây phản cảm.
Ví dụ: Đoạn sau đây mở đầu bằng
câu văn nói về lí do nghiên cứu, kế đến là câu văn mô tả kết quả chính, và nhấn
mạnh đến cái mới của kết quả: "There has been little doubt that
BMD measured at various sites is one of the best measureable determinants of
fracture risk [28-30]. BMD is, in turn, regulated by genetic, hormonal,
dietary and mechanical factors. The present study addressed a small part
of this complex system by using the classical twin design. It was found
that (i) both lean mass and fat mass were associated with areal BMD; however,
fat mass alone appeared to have an independent effect on BMD/height ratios and
volumetric BMD; (ii) both lean mass and fat mass as well as BMD were under
strong genetic influence and (iii) the association between fat mass (and lean
mass) and BMD were mainly mediated through environmental influences."
2. So sánh kết quả của
nghiên cứu với các nghiên cứu trước. Trong đoạn văn này, ngoài so sánh,
tác giả còn phải có trách nhiệm phải giải thích tại sao kết quả của nghiên cứu
khác (hay không nhất quán) với nghiên cứu trước. Khi bàn luận về kết quả
nghiên cứu trước, nếu cần, tác giả có thể trích dẫn con số cụ thể và giải thích
kết quả đó có thật sự nằm trong sự kì vọng chung của vấn đề. Khi xem xét
đến các yếu tố có thể giải thích sự khác biệt giữa các kết quả nghiên cứu, cần
chú ý đến những khác biệt về quần thể nghiên cứu (tuổi, giới tính, đặc tính lâm
sàng …), điều kiện địa phương, phương pháp đo lường, phương pháp phân tích,
v.v… Nếu không thể giải thích tại sao có sự khác biệt, tác giả có thể thành thật
nói như thế: không biết!
Ví dụ: "This study
confirms the familial influence on bone density with estimates of heritability
for the lumbar spine, femoral neck and total body BMD of 78%, 76% and 79%,
respectively, comparable with previous estimates [12-16]. However, the present
study also indicates that a common source of genetic and ... ."
3. Giải thích kết quả
và cơ chế của những mối liên hệ phát hiện trong nghiên cứu. Trong phần
này, tác giải phải giải thích những kết quả có thể giải thích bằng kiến thức hiện
hành. Trong đoạn văn này, tác giả có thể trích dẫn các nghiên cứu khác và
hệ thống hóa thông tin để giải thích kết quả của nghiên cứu mình. Tác giả
có thể đề ra giả thuyết mới để giải thích. Chẳng hạn như nếu nghiên cứu
phát hiện ảnh hưởng của thuốc bisphosphonates và ung thư vú, thì tác giả phải
tìm những thông tin nghiên cứu trước về cơ chế của mối liên hệ. Có thể
nói rằng đây cũng là đoạn văn khó viết nhất, vì phải hệ thống hóa nhiều kiến thức
hiện hành mà không đi ra ngoài phạm vi của nghiên cứu.
Ví dụ: Đoạn sau đây tôi
trích từ một bài báo mới nhất từ tập san Archives of Internal Medicine về
nghiên cứu so sánh tác hại của 2 thuốc rosiglitazone và pioglitazone đến bệnh
tim mạch. Các tác giả giải thích tại sao sao thuốc rosiglitazone gây tác
hại cao hơn thuốc pioglitazone. Thật ra, họ không giải thích được, nhưng
họ đề nghị giả thuyết để giải thích:
“The potential mechanism(s) for
cardiovascular (CV) harm from rosiglitazone use (and the differences from
pioglitazone use) remains to be elucidated, but there are several reasonable
hypotheses. Rosiglitazone therapy increased low-density lipoprotein cholesterol
(LDL-C) levels as much as 23% in trials, leading to approval.21 Current FDA
guidelines consider a drug that lowers LDL-C levels by at least 15%
“approvable” for presumed CV benefits. Although the FDA has not established a
level of increase in LDL-C that is presumed to cause harm, a drug that
increases LDL-C levels would reasonably be expected to increase CV adverse
events. Interestingly, the lipid effects of the 2 marketed thiazolidinediones,
pioglitazone and rosiglitazone, are markedly different.”
4. Khái quát hóa kết
quả nghiên cứu và giải thích ý nghĩa của kết quả. Trong đoạn văn này, tác
giả cần phải bàn về khả năng mà những phát hiện của nghiên cứu có thể áp dụng
cho một quần thể khác hay không. Nếu áp dụng cho quần thể khác, thì phải
dựa vào giả định (assumptions) nào. Nếu là nghiên cứu về tiên lượng và chẩn
đoán, tác giả có thể bàn về giá trị kinh tế và lâm sàng của phương pháp chẩn
đoán.
Ví dụ: Đoạn văn sau đây cố gắng
thuyết phục tại sao mối liên hệ giữa vitamin D và TB là quan trọng và có ý
nghĩa lâm sàng: “The finding of high prevalence of vitamin D
insufficiency in TB patients has a number of clinical implications.
Vitamin D in the form of cod liver oil and sunlight exposure was once a therapy
for tuberculosis prior to the Robert Koch’s discovery of the etiology of this
disease. The association between vitamin D insufficiency and the risk of
tuberculosis suggests that supplementation of vitamin D may help prevent and
reduce the severity of tuberculosis. Indeed, a recent randomized
controlled trial has shown that the severity of TB at the end of treatment was
less for patients with normal vitamin D status at baseline than for those with
vitamin D insufficiency, without adverse effects. However, the vitamin D
dose used in the intervention (100,000 IU) is probably too low to warrant a
clinical effect. These results taken together suggest that low
vitamin D status in TB patients, whether cause or effect, might be an important
determinant of treatment outcome and comorbidities.”
5. Bàn luận về điểm mạnh
và điểm yếu của công trình nghiên cứu. Trong nghiên cứu khoa học, bên cạnh
thành công, lúc nào cũng có hạn chế. Một trong những lí do mà người bình
duyệt và chủ biên tập san từ chối bài báo là do tác giả không chịu bàn luận về
những điểm mạnh và hạn chế của công trình nghiên cứu. Do đó, trong đoạn
văn này, tác giải cố gắng suy nghĩ ra những lợi điểm và khuyết điểm của nghiên
cứu mình. Những điểm này (cả mạnh và yếu) có thể là cách thiết kế, quần
thể nghiên cứu, bệnh nhân, cách đo lường, phương pháp phần tích, v.v… Chẳng hạn
như nếu nghiên cứu làm ở quần thể người Việt, thì “điểm yếu” có thể là kết quả
này không thể khái quát hóa cho các quần thể người da trắng. Cố nhiên, những
kết quả không như dự đoán cũng bên được bàn luận đến nơi đến chốn. Mở đầu
đoạn văn này bằng một câu như "The present findings must be
interpreted in the context of a number of potential limitations. The data were
obtained from a Caucasian population in Sydney, among whom, cultural
backgrounds and ... ." Chú ý là tác giả dùng chữ “potential
limitations”!
Thỉnh thoảng, tác giả có thể dùng
kĩ thuật tranh luận “người rơm” (straw man argument). Kĩ thuật này có thể
nôm nà mô tả như sau: dựng nên một hình nộm bằng rơm, rồi phê bình hình nộm đó
để chứng minh rằng nghiên cứu mình không có vấn đề. Ví dụ: trong đoạn văn
sau đây, tác giả đặt ra một vấn đề (mà thật ra không quan trọng) để làm như
quan trọng! “A limitation of this study was that we could not measure
vitamin D2 (ergocalciferol) and 1,25D in this study; however, the occurrence of
this vitamin D (less than 10% of sera) seems not to be a major problem.”
Đoạn đầu, tác giả dựng nên “hình nộm” 1,25D, rồi ngay sau đó đánh đổ hình nộm
đó bằng cách lí giải rằng không có vấn đề gì cả! Cách bàn luận này chứng
tỏ cho người đọc, người bình duyệt thấy rằng tác giả đã suy nghĩ trước mọi tình
huống có thể xảy ra, đã xem xét hết những vấn đề có thể ảnh hưởng đến nghiên cứu,
nhưng … chẳng có vấn đề nào cả. Cách viết như thế cũng chứng tỏ tác giả
suy nghĩ đến kết quả của mình một cách nghiêm chỉnh, và có tính toán đến cách
diễn giải khác. Chú ý, để có kĩ thuật này, tác giả phải cẩn thận, chứ nếu
không thì dễ gây ra phản tác dụng.
6. Sau cùng là một đoạn
văn kết luận, gọi là "big" bottom line. Đây cũng có thể là đoạn
văn khó viết nhất vì nó phải mang tính cô động (chỉ vài mươi từ thôi), mà phải
chuyển tải được kết quả và ý nghĩa của nghiên cứu. Tôi thường hay nói đùa
rằng phải viết làm sao mà khi người ta đọc xong đoạn văn này, ban đêm về ngủ nằm
để tay lên trán, họ vẫn nhớ đến công trình nghiên cứu của mình! Tiếng Anh
gọi đây là "take home message," tức là thông điệp mà tác giả muốn
chuyển tải đến người đọc.
Vì dụ về đoạn văn kết luận: "In
conclusion, these data indicate that the clinically relevant association
between volumetric BMD and body composition is mediated only through fat mass.
Furthermore, lean mass and fat mass, as with .... These data also suggest that
modulation of environmental factors could translate to clinically relevant
changes in BMD and presumably fracture risk." Chú ý đoạn văn này có 2
câu: câu đầu (“in conclusion”) tóm lược kết quả, và câu hai (“these data
suggest”) có nội dung diễn giải kết quả.
Trong đoạn văn quan trọng này, cố
tránh cách viết vô duyên (nhưng rất phổ biến trong các tập san y khoa) như"Further
research is needed", vì câu văn này chẳng những thừa, mà còn chẳng có
ý nghĩa gì. Đương nhiên là trong khoa học, một nghiên cứu sao khi hoàn tất
đều mở ra một cánh cửa mới, một ý tưởng mới, cho nên chắc chắn sẽ có thêm
nghiên cứu. Câu văn như thế còn cho thấy tác giả chưa đầu tư thì giờ suy
nghĩ đến nơi đến chốn mình muốn nói điều gì!
Một trong những cách viết cũng có
thể làm người đọc “bực mình” là cách viết quá bất định trong phần kết luận,
như "This seems to suggest ..." (chú ý chữ
“seem”) vì nó cho thấy tác giả không chắc chắn về ý nghĩa của nghiên cứu
mình. Nếu tác giả không chắc chắn thì tác giả đã làm phí thì giờ người đọc!
Một kết quả có nhiều cách diễn giải, và người đọc muốn biết theo quan điểm của
tác giả, cách diễn giả là gì, chứ không phải “seem” (dường như là)!
Cảm tạ (Acknowledgments). Thông
thường ngay sau phần bàn luận là phần nhỏ để tác giả viết vài dòng cảm tạ.
Cảm tạ những đồng nghiệp đã giúp đỡ cho công trình nghiên cứu, nhưng họ không đủ
tiêu chuẩn để đứng tên tác giả. Cảm tạ những cơ quan đã tài trợ cho
nghiên cứu, hay nhà hảo tâm giúp đỡ tiền bạc cho tác giả trong quá trình làm việc.
Mấy năm gần đây, một số tập san
yêu cầu tác giả phải có sự đồng ý của người được cảm tạ. Sở dĩ có trường
hợp này là vì trong quá khứ có tác giả lợi dụng phần này để trưng bày những cái
tên lớn trong ngành nhằm tăng giá trị khoa học của bài báo (và một phần nhằm ngầm
thuyết phục người bình duyệt rằng “bài báo của chúng tôi có sự ủng hộ của tổ
sư”), nhưng các nhân vật được trưng bày không hế biết!
***
Nên nhớ rằng phần bàn luận là nơi
thể hiện sự đóng góp tri thức của tác giả vào kho tàng tri thức hiện
hành. Đây là phần mà tác giả có thể đặt ra giả thuyết mới, hoặc mô hình mới,
hoặc qui luật mới để giải thích hiện tượng qua kết quả nghiên cứu của
mình. Do đó, nếu phần bàn luận được viết tốt, giá trị bài báo sẽ tăng rất
cao.
Riêng những chỉ dẫn trên đây là
kinh nghiệm của cá nhân tôi đúc kết sau nhiều năm cọ sát, mà có lẽ các bạn
không tìm thấy trong bất cứ sách nào hay bất cứ bài chỉ dẫn nào từ các chuyên
gia phương Tây. Tôi đã làm “thí nghiệm” với nhiều nghiên cứu sinh của
tôi và đồng nghiệp của tôi về cấu trúc đó, và tôi có thể hãnh diện nói rằng rất
có hiệu quả. Khi nghiên cứu sinh tuân thủ theo những đoạn văn theo chỉ dẫn
trên đây, họ đều được người bình duyệt khen là bài báo “well written”. Lời
khen mới nhất là cách đây 3 tuần! Do đó, các bạn có thể làm thử bằng cách
viết phần thảo luận theo cấu trúc trên và xác suất thành công có thể lên đến
95%, nếu sử tiếng Anh cho tốt. Trong các bài tiếp theo, tôi sẽ chỉ các bạn
cách sử dụng tiếng Anh trong từng phần của bài báo khoa học.
Chú thích:
Sau đây là phần bàn luận của một
bài báo mới nhất trên tập san Archives of Internal Medicine mà tôi
nghĩ tiêu biểu cho một bàn luận tốt. Bài này thật ra là một phân tích tổng
hợp (meta-analysis) về tác hại của rosiglitazone (một thuốc điều trị tiểu đường)
đến các bệnh tim mạch. Tôi sẽ trích và có vài ghi chú ngắn:
Mớ đầu phần bàn luận tác giả cung
cấp bối cảnh của “câu chuyện”, và tóm lược kết quả chính:
“The CV safety of rosiglitazone
therapy has remained controversial after the publication of initial
reports that suggested that the use of rosiglitazone increases the risk
for MI and other ischemic myocardial events.1, 14, 20 Despite
11 years on the market, rosiglitazone has not been studied in any
definitive randomized controlled CV outcomes trials. Accordingly, a
meta-analysis of existing clinical trials represents the most robust
available approach to determining the CV safety of this drug. The current study
analyzed MI and CV mortality for 56 randomized trials involving
35 531 patients. Using a study-level meta-analysis, the OR for MI was
significantly increased but without evidence of an increase in CV or
all-cause mortality. An alternative analysis that included trials with no CV
events found a similar hazard (Figure
3). Subgroups classified by study duration and comparator drug also
showed elevated OR estimates (Figure
2). These findings are consistent with prior meta-analyses conducted by
GSK, the FDA, and most independent investigators demonstrating an
increased risk of MI in patients treated with rosiglitazone.1, 10, 14, 20 The
FDA has announced that it will conduct anadvisory committee meeting in July
2010 to consider whether to remove rosiglitazone from the market.
Đoạn dưới đây, tác giả bàn về ý
nghĩa của nghiên cứu, như tuyên bố trong câu văn đầu. Các câu văn kế tiếp
nhằm chứng minh cho câu tuyên bố đó:
The public health implications of
these results are considerable. There are more than 23 million persons
with diabetes in the United States alone and nearly 300 million worldwide.30-31Cardiovascular disease
is the leading cause of death in patients with type 2 diabetes,
representing approximately 68% of all causes of mortality.30 The
estimated 28% to 39% increase in the risk for MI observed for
rosiglitazone use in the current analysis and the NNH of 52 or 37 (with
and without the RECORD trial) represent a significant potential health
burden. The magnitude of the observed effect is larger than might be
anticipated in a safety analysis using intent-to-treat (ITT) methods. In
ITT efficacystudies, discontinuation of therapy or crossovers between treatment groups
bias the study toward the null hypothesis, thereby favoring the control
treatment. However, in safety studies, similar flaws in study conduct bias
the investigation toward a relative risk of 1.0, providing the potential
for a false declaration of safety. Accordingly, using standardized ITT
methods, it is statistically much more difficult to conclude that a
therapy is unsafe than to demonstrate efficacy. Because we did not have
access to patient-level data, we were unable to perform a useful
alternative analysis that is commonly used in drug-safety studies, a
"per protocol" approach that includes events that occurred
"on-treatment" or within 30 days after discontinuation of
treatment.
Đoạn này giải thích tại sao tác
giả sử dụng phương pháp phân tích, và chỉ ra rằng dùng phương pháp nào thì kết
quả vẫn không khác nhau:
We elected to present analyses
with and without the RECORD trial. Several of the concerns about the
RECORD trial have been reported elsewhere.5-8 The
study was an open-label, randomized noninferiority trial that compared
rosiglitazone with metformin or sulfonlyurea. The primary efficacy
parameter was unconventional, CV hospitalization or death. The study
postulated an annual event rate of 11% but observed an event rate of only
2.6%, a large mismatch that substantially reduced statistical power. The
MI rate for the control group in the RECORD trial was 0.52% per year
compared with 1.38% for a similar population in the ACCORD trial, raising
the concern that MIs may have been incompletely ascertained. By the end of
the trial, 40% of patients randomized to rosiglitazone therapywere no longer
taking the drug. Nonadherence to randomized therapy represents an
important issue in a safety trial because, as noted above, dropouts and
crossovers bias the result toward the null hypothesis. Finally, the
company compromised data integrity by publishing an unplanned interim
analysis32 and
appears to have had access to ongoing study data at a time when the trial should
have remained blinded.2, 6-7
Đoạn này tác giả bàn về những hạn
chế của nghiên cứu:
The limitations of our
meta-analysis are notable. We had access to study-level data that were
diclosed as a result of a court settlement and subsequently posted on a
company Web site. The unavailability of patient-level data precluded a
more statistically powerful analysis using time-to-event methods. However,
it should be noted that the original 2007 meta-analysis was subsequently replicated
by the FDA using time-to-event data, resulting a nearly identical relative
risk. There are important strengthsto the study. The number of patients and
studies included in the analysis is substantially larger than was
available for our original meta-analysis, which was completed in 2007.
Furthermore, because disclosure of all clinical trials by the maker of
rosiglitazone was mandated by a court order, the common problem of
publication bias did not confound our analyses. The original 2007 analysis was
criticized by some authors because it did not include clinical trials in
which there were no events.13Therefore,
in the current effort, we provided an alternative approach that includes
all 56 trials, regardless of whether there were adverse events. With
both methods, the OR was nearly identical.
A related issue involves the
question of whether use of the other marketed thiazolidinedione,
pioglitazone, carries similar risks. A large CV outcomes trial with
pioglitazone, the PROACTIVE(Prospective Pioglitazone Clinical Trial in
Macrovascular Events) trial, which was published in 2005, did not show
statistically significant benefits.33 It
showed a trend toward reduction in the primary efficacy parameter, a broad
composite of CV events (HR, 0.90; 95% CI, 0.80-1.02; P = .10).
However, aprespecified secondary end point of death, MI, and stroke showed a
benefit (HR, 0.84; 95% CI, 0.72-0.98; P = .03). A
patient-level meta-analysis of CV outcomes with pioglitazone analyzed 19
trials, with a total enrollment of 16 390 patients, and showed a
statistically significant benefit on the composite of death, MI, and
stroke (OR, 0.82; 95% CI, 0.72-0.94; P = .005). These
findings effectively rule out a CV hazard for pioglitazone use and suggest
the possibility of a CV benefit. However, it must be noted that the use of
both rosiglitazone and pioglitazone has been associated with an increased
risk of congestive heart failure.
Đoạn này tác giả bàn về cơ chế tại
sao rosiglitazone có thể gây tác hại:
The potential mechanism(s) for CV
harm from rosiglitazone use (and the differences from pioglitazone use)
remains to be elucidated, but there are several reasonable hypotheses.
Rosiglitazone therapyincreased low-density lipoprotein cholesterol (LDL-C)
levels as much as 23% in trials, leading to approval.21 Current
FDA guidelines consider a drug that lowers LDL-C levels by at least 15%
"approvable" for presumed CV benefits. Although the FDA has not
established a level of increase in LDL-C that is presumed to cause harm, a
drug that increases LDL-C levels would reasonably be expected to increase
CV adverse events. Interestingly, the lipid effects of the 2 marketed
thiazolidinediones, pioglitazone and rosiglitazone, are markedly
different.34 In
a comparative efficacy trial, rosiglitazone therapy produced greater
increases in LDL-C levels and raised triglyceride levels, while
pioglitazone therapy reduced triglyceride levels. Pioglitazone therapy
also produced significantly greater increases in high-density lipoprotein cholesterol
compared with rosiglitazone therapy. Thiazolidinediones are nuclear
receptor agonists that modulate expression of a large number of genes.
There are major differences in the pattern of gene modulation for
pioglitazone vs rosiglitazone.35 Rosiglitazone activates
a gene associated with production of matrix metalloproteinase 3, an enzyme
linked to plaque rupture.36
Và quay lại phần ý nghĩa.
Tôi nghĩ tác giả muốn viết theo cách “điệp khúc”, tức là nhắc lại tầm quan trọng
của nghiên cứu:
There are also implications of
these findings on the traditional approach used by regulatory authorities
to approve drugs that are used to treat diabetes. Historically, evidence
of a glucose-lowering effect, with no evidence for obvious safety issues,
was sufficient for approval. In the wake of the rosiglitazone controversy, the
FDA has mandated that sponsors of all new diabetes drugs perform CV
outcomes studies sufficient to rule out an HR with an upper 95% CI of 1.8
before approval and 1.3 after approval.37 Had
such requirements been in place at the time rosiglitazone was developed,
it seems likely that the drug would never have been approved.
Và đoạn kết luận. Nhưng tôi
thì nghĩ tác giả viết đoạn này dài quá. Đáng lẽ ngắn hơn. Nhưng văn là
người, nên có thể đây là phong cách của tác giả!
The results of the current
meta-analysis suggest an unfavorable benefit to risk ratio for
rosiglitazone use. The implications of this finding warrant further
discussion. Even a modest increase in the risk of MI in a diabetic
population would have serious consequences. Reviewers within the FDA
Office of Surveillance and Epidemiology calculated the number of major CV
events potentially attributable to rosiglitazone therapy from 1999 to
2006, reporting a range from 41 000 to 205 000.2 More
recently, using lower estimates of the rate of drug use after the 2007
controversy, FDA reviewers have calculated the number of excess MIs (6000 annually)
potentially attributable to rosiglitazone use relative to treatment with
the alternative thiazolidinedione, pioglitazone.3 Although
hyperglycemia has been associated with an increased risk of microvascular
adverse events, there are now 12 classesof drugs that are approved to lower
blood glucose levels, including insulin. Because no unique benefits of
rosiglitazone use have been identified, administration of this agent
solely to lower blood glucose levels is difficult to justify.”
Nguồn: Nissen SE, Wolski K. Rosiglitazone
Revisited. Arch Intern Med. 2010;170(14).
Nguyễn Văn Tuấn
0 Comments:
Bài đăng Mới hơn Bài đăng Cũ hơn Trang chủ
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)