Tiếp tục đề tài tiếng Anh và bài báo khoa học: Tiếng Anh có ảnh hưởng trực tiếp đến “số phận” của một bài báo khoa học. Bài viết này sẽ lượt qua những lỗi tiếng Anh hay thấy trong các bài báo khoa học (ngành y). Tôi nghĩ các bạn sẽ ngạc nhiên vì những thông tin “độc” trong bài này, những thông tin mà chắc các bạn ít nghĩ đến :-). NVT
The English needs considerable editing
English grammar needs revision
The clarity of the presentation is poor.  Many times this is due to grammatical errors (too many to enumerate), but oftentimes the wording is just to difficult to follow.
The manuscript requires considerable editing as many passages are poorly written;
The quality of the language is far below the acceptable minimum level, to such a point that many sentences are simply not understandable.  The papers can not be published as it stands.
Trên đây là vài lời bình do tôi thu thập (sưu tầm!) từ của các chuyên gia bình duyệt (peer reviewers) của các tập san y khoa mà tôi là thành viên trong ban biên tập.  Những phê bình trên đây đều liên quan đến vấn đề tiếng Anh trong bài báo khoa học.  Phần lớn những bài báo nhận được phê bình như thế đều xuất phát từ Á châu.  Thỉnh thoảng chúng tôi nhận được bài báo khoa học rất tốt, nhưng đành phải từ chối công bố (reject) bởi vì có quá nhiều sai sót về tiếng Anh, mà ban biên tập thì không có thì giờ để chỉnh sửa.  Do đó, tiếng Anh có ảnh hưởng trực tiếp đến “số phận” của một bài báo khoa học.
Kinh nghiệm của tôi cho thấy một bài báo khoa học tốt (well written paper) thường có xác suất được chấp nhận cao hơn bài báo viết sai tiếng Anh.  Thật vậy, trong quá khứ đã có vài nghiên cứu cho thấy ngoài chất lượng nghiên cứu và thông tin, cách viết tiếng Anh trong bài báo khoa học cũng có liên quan đến xác suất được chấp nhận cho công bố trên các tập san quốc tế có uy tín cao.
Bài báo well-written = đơn giản + trong sáng
Nhưng thế nào là một bài báo “well written”?  Ngạc nhiên thay, rất ít có tài liệu nào giải thích hay đặt ra tiêu chuẩn để đánh giá một bài báo well written!  Trong khoa học, tiêu chuẩn minh bạch và đơn giản được xem là tiêu chuẩn vàng.  Do đó, một bài báo khoa học được xem là well written phải đáp ứng 2 tiêu chuẩn: trong sáng (clarity) và đơn giản (simplicity).
Hai khía cạnh này phải thể hiện xuyên suốt trong bài báo khoa học.  Một bài báo khoa học thường được viết theo cấu trúc IMRAD (introduction, methods, results, and discussion).  Mỗi phần bao gồm một số đoạn văn (paragraphs). Mỗi đoạn văn bao gồm nhiều câu văn (sentence).  Một trong những khó khăn mà tôi thấy sinh viên thường gặp lúc viết bài báo khoa học là cách cấu trúc một đoạn văn sao cho dễ đọc và “trôi chảy”.  Thật ra, chẳng riêng gì sinh viên, tôi thấy ngay cả những thầy cô vẫn viết văn khoa học cũng rất kém.  Một đoạn văn là một “đơn vị” văn chương của một bài báo khoa học.  Điều mà người đọc kì vọng khi đọc một đoạn văn là ý tưởng của người viết và thông tin làm nền tảng cho ý tưởng đó.  Nếu người viết không đáp ứng được kì vọng này – như đoạn văn có nhiều ý tưởng, hay không có bằng chứng – thì người đọc sẽ cảm thấy lẫn lộn hay khó chịu, và sẽ không muốn tiếp tục đọc.
Chức năng của một đoạn văn là giới thiệu ý tưởng, cung cấp bằng chứng yểm trợ cho ý tưởng, và lập trường khúc chiết.  Một đoạn văn tốt là một đoạn văn hàm chứa thông tin, và thông tin đó phải có liên quan hay mang tính yểm trợ cho luận án của người viết.  Đoạn văn đó cần phải có liên hệ với luận án một cách rõ ràng, sao cho cả thế giới đuều biết được đoạn văn đó có ý định nói lên điều gì.  Một đoạn văn tốt phải mạnh mẽ và có khi trần trụi.  Một đoạn văn mạnh mẽ rất cần thiết để phát triển một ý tưởng chính bằng cách dùng đầy đủ bằng chứng.  Một đoạn văn tốt không nên có những câu văn thừa thải, những câu văn “gầy gò”, với bằng chứng chẳng có liên quan gì với nhau.  Khúc chiết ở đây có nghĩa là đoạn văn đó phải “hòa hợp” với những đoạn văn khác trong bài báo.  Một đoạn văn tốt không bao giờ làm gián đoạn các đoạn văn khác, mà lúc nào cũng có ý tưởng liên quan với một đoạn văn trước đó.
Những lỗi phổ biến
Vậy câu hỏi đặt ra là trong thực tế các bài báo khoa học trong sáng ra sao và đơn giản cỡ nào?  Để trả lời câu hỏi này, các nhà nghiên cứu y học đã thực hiện một nghiên cứu [theo tôi là] rất thú vị.  Họ ngẫu nhiên chọn 120 bài báo ngành tim mạch và ước tính tần lỗi tiếng Anh trong các bài báo đó.  Họ định ra 6 lỗi tiếng Anh, và 6 lỗi này chia thành 3 nhóm: nhóm lỗi về văn phạm, nhóm lỗi về cấu trúc, và nhóm lỗi về cách dùng từ.
1.  Nhóm lỗi văn phạm bao gồm 2 loại lỗi về cách dùng thể dạng (passive hay active voice) và cách dùng thì (tense).
Trong văn chương khoa học, người ta vẫn tranh cãi nhau nên dùng thể passitive hay thể active, và hình như vẫn chưa đến hồi kết.  Một số tập san y khoa như Lancet, JAMA, New England Journal of Medicine … khuyến khích (thậm chí họ biên tập) tác giả dùng thể active, vì họ cho rằng viết văn theo thể này dễ hiểu hơn là văn theo thể passive.  Do đó, thay vì viết “Bone density was measured by …” (thể passive), thì nên viết “We measured bone density …” (thể active).  Tôi thật ra cũng thấy viết văn theo thể active dễ theo dõi hơn là thể passtive.  Thử đọc đoạn văn “A separate group of patients underwent coronary artery perfusion …” với “Coronary artery perfusion was performed on a separate group of patients …” bạn đọc sẽ thấy cách viết nào dễ hiểu hơn!
Về cách dùng thì có vài qui ước như sau:
(a)    nếu đề cập đến các nghiên cứu trước: dùng thì quá khứ.  Ví dụ: “In the mid-19th century, English speakers from the British Isles dominated immigration into the United States.”
(b)   Nếu đề cập đến một khái niệm mới: dùng present perfect.  Ví dụ: “The concept of bone structure has been proposed as a way to explain …”.
(c)    Nếu diễn giải dữ liệu: dùng thì hiện tại đơn giản (simple present tense).  Ví dụ: “Table 1 shows that …”
2.  Nhóm lỗi liên quan đến cấu trúc bao gồm 2 loại chính: câu văn dài, và thứ tự của từ.  Câu văn dài thường rất khó đọc và có khi làm người đọc lạc hướng.  Do đó, trong văn chương khoa học, điều “đại kị” là câu văn dài.  Thử đọc câu văn “The soluble form of B2 micro-globulin (B2 m) HLA class 1 heavy chain (FHC) consists of three size variants, namely the intact liquid soluble 43 dDa heavy chain (A variant), released through a shedding process; the truncated water soluble 39 dDa heavy chain B (B variant), which lacks the trans-membrane segment and is produced by an alternative RNA splicing and the 34-36 dDa (C variant), which lacks the trans-membrane and intratoplasmatic portion of the molecules”, chúng ta sẽ thấy rất khó lĩnh hội.  Đáng lẽ tác giả nên tách ra thành 3 đoạn văn cho dễ hiểu hơn.
Cách sắp xếp thứ tự của từ cũng đóng vai trò quan trọng làm cho bài báo đơn giản hơn.  Thử đọc câu văn sau đây: “In all patients, bioptic material was taken and was studied in the period from December 1999 to May 2000”, chúng ta thấy chẳng có gì sai về mặt văn phạm hay từ ngữ, nhưng cách sếp từ có vấn đề.  Trong câu đầu tác giả cho biết thực hiện hai việc (taken và study), và đáng lẽ phải tách thành 2 câu riêng như sau “Bioptic material was taken from all patients in the period between December 1999 and May 2000. It was then studied …” thì sẽ dễ hiểu hơn.
3.  Nhóm lỗi thứ 3 liên quan đến cách dùng từ bao gồm 2 loại chính: biệt ngữ (jargon) và lạm dụng danh từ.  Nhiều người mới học tiếng Anh có thói quen hay dùng từ gốc Latin và Hi Lạp hay những từ mang tính “làm dáng” (có thể muốn khoe khả năng tiếng Anh của mình), nhưng cách dùng như thế được xem là một lỗi trong văn chương khoa học.  Trong thí nghiệm trên chuột, chúng ta hay thấy những câu như “The animals were sacrificed” thay vì viết thẳng ra là “The animals were killed” thì dễ hiểu hơn.
Một hình thức lạm dụng danh từ là tìm cách kéo dài … danh từ!  Chẳng hạn như thay vì viết “A recovery was achieved in a quick way …”, tác giả có thể chỉ đơn giản viết “a quick recovery” là đủ.  Thỉnh thoảng có tác giả còn viết một cách “ẻo lả” như “We made an analysis of the data” mà đáng lẽ chỉ đơn giản là “We analyzed the data …”.
Các tác giả của bài báo đến từ hai nước nói tiếng Anh (là Anh và Mĩ), và 6 nước mà tiếng Anh không phải là quốc ngữ: Thụy Điển, Nhật, Đức, Pháp, Tây Ban Nha, và Ý.  Họ lấy những bài báo trong nhóm tác giả nói tiếng Anh là “nhóm chứng”, rồi so sánh tần số lỗi tiếng Anh của các tác giả không nói tiếng Anh với nhóm chứng.
Kết quả “đếm” 6 lỗi tiếng Anh trên được tóm lược trong Bảng 1 sau đây.  Điểm dễ thấy nhất trong kết quả nghiên cứu này là tất cả các tác giả dù tiếng mẹ đẻ là tiếng Anh hay không tiếng Anh đều phạm nhiều lỗi tiếng Anh trong bài báo khoa học.  Tính trung bình, số lỗi tiếng Anh của các tác giả người Anh là 22 và Mĩ là 23 trong mỗi bài báo khoa học. Đó là một con số khá lớn, vì mỗi bài báo khoa học chỉ trung bình 2000 đến 3000 từ.  Tuy nhiên, như chúng ta có thể đoán được, các tác giả người Thụy Điển, Nhật, Pháp, Ý, v.v… phạm nhiều lỗi tiếng Anh hơn.  Số lỗi tiếng Anh trung bình trong mỗi bài báo khoa học cao nhất ở tác giả người Ý (49), kế đến là Pháp (43), Đức (41), Tây Ban Nha (38), Nhật (37), và Thụy Điển (35).  Một điều thú vị từ kết quả này là phần lớn những lỗi tiếng Anh tập trung vào nhóm chọn từ và văn phạm; rất ít lỗi lầm về cấu trúc câu văn hay thứ tự từ.  Tuy nhiên, tác giả người Pháp và Ý phạm nhiều lỗi trong cách sắp xếp từ ngữ trong bài báo khoa học.
Bảng 1. Tần số lỗi tiếng Anh tính trung bình trên mỗi bài báo khoa học ngành tim

Văn phạm
Cấu trúc
Chọn từ
Thể passive
Thì (tense)
Câu văn dài
Thứ tự từ
Biệt ngữ
Lạm dụng danh từ
Anh
8.3
2.4
1.7
2.0
4.0
4.6
4.4
2.1
2.3
0.6
6.4
6.1
Thụy Điển
5.0
8.1
1.1
2.7
9.7
8.4
Nhật
3.9
6.0
2.7
2.6
11.7
7.9
Đức
7.3
6.7
5.5
3.8
10.7
7.1
Pháp
7.9
6.0
5.6
5.4
14.6
9.4
Tây Ban Nha
7.9
8.8
2.7
2.6
10.1
6.4
Ý
7.0
13.9
2.2
4.3
12.8
7.5

Câu hỏi kế tiếp mà các nhà nghiên cứu muốn biết là: có một sự tương quan nào giữa số lỗi tiếng Anh và tỉ lệ bài báo được chấp nhận?  Câu trả lời là có tương quan (xem Biểu đồ 1 dưới đây), nhưng là mối tương quan tương đối yếu.  Nói chung, bài báo có tần suất lỗi tiếng Anh càng nhiều thì xác suất được chấp nhận cho công bố càng thấp.  Một bài báo mà có đến 50 lỗi thì xác suất được chấp nhận chỉ 9%!
Biểu đồ 1.  Mối liên hệ giữa tần số lỗi tiếng Anh trên mỗi bài báo khoa học và tỉ lệ được chấp nhận cho công bố
***
Tiếng Anh đã trở thành một kĩ năng khó có thể thiếu được trong khoa học.  Vào thập niên 1980s, trên 60% các tập san khoa học trên thế giới sử dụng tiếng Anh.  Hai mươi năm sau, con số này là trên 80%.  Trong vài lĩnh vực như y khoa và sinh học, hiện nay hơn 90% các tập san sử dụng tiếng Anh.  Ngay cả tập san khoa học tại các nước không nói tiếng Anh như các nước Bắc Âu và Nhật cũng sử dụng tiếng Anh làm phương tiện thông tin.  Các tập san danh tiếng và uy tín vào hàng số một trên thế giới (như Science, Nature, Cell, Lancet, New England Journal of Medicine, Nature Genetics, v.v…) đều xuất bản bằng tiếng Anh.  Do đó, để thành công trong khoa học, tác giả cần phải trao dồi tiếng Anh cho thật tốt.  Nhưng đây lại là một khó khăn rất lớn của các tác giả mà tiếng mẹ đẻ không phải là tiếng Anh.  Tuy nhiên, ngay cả các tác giả mà tiếng mẹ đẻ là tiếng Anh vẫn cảm thấy khó khăn khi viết bài báo khoa học cho tốt.
Nghiên cứu trên đây cho thấy tần số lỗi tiếng Anh không chỉ thấy ở các tác giả mà tiếng mẹ đẻ không là tiếng Anh, mà còn hay thấy ở những tác giả nói tiếng Anh.  Những lỗi tiếng Anh chủ yếu về văn phạm và cách dùng từ, hơn là cấu trúc câu văn.  Điều đáng quan tâm là bài báo có nhiều lỗi thì khả năng được chấp nhận cho công bố rất thấp.  Điều này có ý nghĩa trực tiếp đến các nhà khoa học Việt Nam, vì kĩ năng tiếng Anh của người Việt nói chung vẫn còn kém so với các nước đề cập trong bài viết này.  Theo tôi thấy, những kết quả phân tích này một lần nữa chứng tỏ cho chúng ta thấy tiếng Anh đóng vai trò rất quan trọng trong việc công bố quốc tế.
Tham khảo
R. Coates, et al. Language and publication in Cardiovascular Research articles.  Cardiovascular Research 2002; 53:279-285.

Bảng 2. Một số lỗi phổ biến về cách dùng từ trong bài báo khoa học
Biệt ngữ
Thể loại
Ví dụ
Nên sửa thành
Từ dễ lẫn lộn
Pediatric patient
Child
Sacrificed
Killed
Advocate
Used
Từ không chính xác
Evidenced
Showed
Employed
Used
Actually
Now
Represents
Is
Từ không cần thiết
Studied in the scientific literature
Studies
It could be hypothesized tht
Might
The above mentioned
These
Experience a meaningful response
Benefit
Until healing occurs
Until healed
Lạm dụng danh từ
Thay vì dùng tính từ
The termination of
Finished
The number was fewer
Were fewer
Thay vì dùng trạng từ
In recent years
Recently
In a first step
Initially
Not in a specific way
Not specifically
By optical observation
Optically
Thay vì dùng động từ
Are in agreement with
Agree
The necessity of
Needed
Is the possibility to
Can
For the treatment of
To treat
In detecting the presence of
On detecting

Sau đây là một số từ hay cách viết có thể làm cho người đọc bị lạc hướng.  Danh sách này tôi sưu tầm từ nhiều nguồn nhưng chắc có lẽ chưa đầy đủ:
Distraction
Comment/suggestion
At the present time
Delete
It is believed
Delete
Approximately
About
IvDEA
intravenous dextropomorpho-editate antimony
Is required
are needed
commences
begins, starts
vast majority
Most
demonstrate
develop (it happens to the patient)
skin rashes
Rashes
comparatively
Delete (compared with what?)
In colour
Delete (purple can be nothing else)
Literature shows
Which literature? Reference please?
serum LEA
Concentration in the serum
elevated
Delete (raised)
In excess of
Above
Epidermis
is epidermis meant? or is this an elegant variation of skin
significantly
Change (this is a technical word in statistics)
female subjects
Women
of the same opinion
Agreed (past, they did in 1982)
be of assistance
Help
spectrum
Change - a technical word in optics
at some future time
Delete (implied by "would")
as already stated
Delete
It seemed to the present researchers
we thought
they
We
theorised
Argued
sacrificing
Killed (no ritual implication here)
various
Specify which
following
After
reveal change - too strong, not a revelation

data
facts
externalisation
be more specific
Communication
paper, article
Reports
we report - a communication is inanimate
Nguyễn Văn Tuấn

 Nguồn:

0 Comments:

Post a Comment



Bài đăng Mới hơn Bài đăng Cũ hơn Trang chủ


Khảo Sử trên Facebook