TRUNG THỰC VÀ DŨNG CẢM - lời thề chung cho các nhà Sử học
0 nhận xét Người đăng: Unknown vào lúc 04:12
Ảnh từ trái sang, các Giáo sư Sử học: Trần Quốc Vượng, Trần Văn Giàu, Hà Văn Tấn và Đinh Xuân Lâm.
Ảnh: Bùi Tuấn
Ngày 24 - 25/6/2002, trong khuôn khổ thực hiện đề tài độc lập cấp Nhà nước về Lịch sử Việt Nam do PGS.TS Nguyễn Quang Ngọc - Chủ nhiệm Khoa Lịch sử, Trường ĐHKHXH&NV làm chủ nhiệm, Hội nghị bàn về phương hướng xây dựng giáo trình Lịch sử Việt Nam và Lịch sử Văn hóa Việt Nam đã được tổ chức. Tại hội nghị bàn này, GS. Trần Quốc Vượng đã trình bày một bản báo cáo vô cùng tâm huyết, hết sức sâu sắc và đầy tinh thần trách nhiệm của một nhà khoa học, một nhà giáo dục đầu ngành. Từ đó đến nay, GS. Nguyễn Quang Ngọc vẫn giữ bản báo cáo này như một "bảo bối" cho toàn bộ quá trình triển khai bộ "Lịch sử Việt Nam" 4 tập mà trong đó GS. Trần Quốc Vượng cũng là một tác giả.
Bài viết như một lời căn dặn của người quá cố về một thái độ dũng cảm và trung thực trong khi viết về lịch sử.
1. Mỗi giáo trình đại học theo đúng nghĩa phải là một công trình nghiên cứu khoa học chất lượng cao. Chất lượng cao là gì? ở những phần sau sẽ nói, nhưng ở đây cần nói ngay rằng toàn bộ và trong từng phần cuốn sách nó phải là một công trình suy tư - nghiên cứu đã nhiều năm đau thiết của một/ những giảng viên đại học có nhân cách khoa học (Personnalité) được xã hội trí thức trong ngoài nước thừa nhận, tuy vẫn có thể được tranh cãi. Tất nhiên là nó phải có tính sư phạm với văn phong khá trường quy.
2. Thời đại mà tất cả các trường đại học trong nước chỉ dùng một giáo trình duy nhất đã qua rồi!. Kinh nghiệm giáo trình "Lịch sử Việt Nam" là vậy, và giáo trình "Cơ sở văn hoá Việt Nam" cũng là vậy.
Cái ta sẽ viết là giáo trình cho ĐHKHXH&NV- trước hết là cho Khoa Sử của ĐHQGHN.
Thế thì và nhất là ở thời buổi "đổi mới" hiện nay, ta chẳng ngần ngại gì mà không thừa nhận tính trường phái của giáo trình do Khoa Sử biên soạn, thậm chí tính cạnh tranh trong khoa học, dù ai đó có thể phê phán chúng ta là có tính đố kỵ hay thậm chí là tính biệt phái - hay bè phái.
Miễn là từ tâm - óc, chúng ta trung thực và hoàn toàn tự nguyện tuân thủ phương pháp luận sử học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa macxit sáng tạo và tư tưởng Hồ Chí Minh sáng tạo và hội nhập với trào lưu sử học tiến bộ của Loài người từ Đông sang Tây, từ Nam chí Bắc, theo cách ta Học - Hỏi - Hiểu - Hành.
Chẳng hạn như, nếu cấp trên giao cho tôi chủ biên giáo trình "Lịch sử Văn hoá Việt Nam" dùng cho Khoa Sử trường ĐHKHXH&NV - ĐHQGHN, tôi phải có quyền lựa chọn các cộng tác viên trong ngoài trường cùng "gu sử học" với tôi. Nếu không, tôi xin đứng ngoài, không thắc mắc gì và chỉ làm những cái gì và với ai mà tôi thích. Trong trường hợp đó xin chớ phê phán tôi là cá nhân, tiêu cực. Trước mắt tôi là con đường về hưu, hưởng thú thanh nhàn cho đến khi từ giã cõi đời giả tạm này.
3. Chúng ta sẽ viết giáo trình chất lượng cao, để đời. Đời sống của nó là một vài chục năm, cứ cho rằng tới khoảng 2020 sẽ "lạc hậu", quá thời. Và sẽ có một thế hệ khác viết lại. "Il a fait son temps" là một thành ngữ Pháp có tính phổ quát cho mỗi nhà khoa học, cho mỗi công trình khoa học.
3.1. Khối tư liệu dùng để biên soạn nên nó phải phong phú - đa dạng, có tính cập nhật cao.
Như thế, đòi hỏi mỗi người viết sách giáo trình phải cập nhật cao, với trong nước và với quốc tế. Thí dụ về trước Công nguyên, tôi phải đưa vào giáo trình bài "Việt ca" và một bài thơ có nhắc đến Âu Việt - Lạc Việt cùng sự giải mã của học giả Nhật, học giả Trung Hoa và học giả Việt Nam (tuy họ giải mã khác nhau) cũng như tôi phải đưa vào các tài liệu khảo cổ hữu thể sưu tầm được cho đến 2002 (Lung Leng, Eo Bồng, Trà Kiệu, Lý Nhân, Cần Giờ, Domea...).
3.2. Không chỉ hiện đại về tư liệu mà tôi phải xử lý mối quan hệ biện chứng giữa Phá bỏ - Bảo tồn - Sáng tạo.
Đừng mong hòng một cách ảo tưởng rằng Sử học là một khoa học tuyệt đối khách quan, phát hiện ngay được những quy luật khách quan của sự Vận động lịch sử.
Có Histoire-Réalité và tôi không phải là một kẻ làm sử (Faire Histoire) hư vô chủ nghĩa (annihiliste) hay thực chứng (positiviste). Nhưng cái đó nói như Giáo sư Sử học lớn J.Furet - người tổng kết 200 năm lịch sử cách mạng Pháp (1789-1989) - luôn luôn còn ở phía chân trời của mỗi nhà sử học chân chính. Với đầy lòng kính trọng của một kẻ hậu tử với bậc tiền bối, tôi buộc mình không dối lòng khi nói rằng cụ Trường Chinh chưa phải là người tổng kết lịch sử Cách mạng tháng 8/1945 hay nhất, đúng nhất. Cụ Tảo Trang viết tặng tôi đôi câu đối của đức Phan Bội Châu:
“Hậu tử thường đa tân tuế nguyệt
Tiền trình bất thị ác phong vân."
Tôi vô cùng cảm ơn nhưng vẫn để đấy để ngẫm suy.
Trước mắt chúng ta vẫn chỉ có - và chỉ có thể có - cái Historie Conxience. Lịch sử gắn liền với nhà sử học, với nhân cách và nhận thức của họ.
Viện sĩ Mounier, trong công trình De la connaissane Historique bảo: nhà sử học viết sử cũng chỉ như nhà hoạ sĩ vẽ chân dung (Portraitriste)! Hoạ sĩ vẽ chân dung tôi - một hiện thực khách quan đối với ông ta - nhưng cũng đồng thời họ vẽ chân dung họ, theo cách họ hiểu về tôi.
Tôi vừa được đọc một tài liệu mới nhất: Học thuyết Tương đối luận của A.Einstain cũng chỉ là tương đối mà thôi!.
Vì vậy mà hơn một chục năm trước, tôi đã viết bài "Giải ảo hiện thực Đống Đa” và năm nay tôi đã và sẽ viết bài "Giải ảo hiện thực Đồng Đậu” cùng bài "Giải ảo hiện thực núi Đá Bia" (Phú Yên). Tôi không muốn là kẻ quấy nhiễu sân cỏ lịch sử như Neuville quấy nhiễu sân cỏ World cup Korea - Japan.
Số phận tôi là vậy và tôi buộc phải "đảm đương thân phận”- nói kiểu Từ Chi!
Chẳng hạn, tôi mong các nhà sử học - bạn tôi hãy suy nghĩ và viết lại - chí ít dưới khía cạnh "Lịch sử văn hoá Việt Nam” - về Triệu Đà (Lê Văn Hưu, Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh có viết như ta trong các giáo trình thập kỷ 60, 70 không?), về Sĩ Nhiếp, về Cao Biền. Vì sao "Việt điện u linh" (1329) - và tâm thức dân gian cùng nhiều nhà sử học khác, gọi ngài là "Sĩ vương" và lập đền thờ cúng. Vì sao trong tờ "thủ chiếu" của đức vua khai sáng nhà Lý, lại gọi "Cao Biền" là "Cao vương"? v.v... Dựa trên suy tưởng của tôi đã có nhà sử học viết rằng: Cái gọi là thời Bắc thuộc về hiển thể chính trị chỉ là quyền tự trị địa phương. Giáo trình mới của Khoa Sử nên xem lại những chuyện đó, dù khuôn nó vào lĩnh vực Histoire mentale (lịch sử tâm thức), một phần của lịch sử văn hoá Việt Nam.
Là một đơn vị được phong tặng danh hiệu cao quý - Đơn vị Anh hùng thời đổi mới, dưới sự chèo chống của ông PGS.TS. Chủ nhiệm Khoa “đức xứng kỳ chức”, với các giáo sư tài ba danh vọng vượt bậc Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang..., tôi chỉ mong toàn Khoa Sử, qua bộ giáo trình mới này, "đổi mới mạnh mẽ và kiên quyết" tư duy Sử học để thế hệ trẻ - như đứa cháu ngoại Phan Quang Anh, tức Bờm của tôi, mới bắt đầu học lớp 9 mà kiên quyết học để được tuyển thẳng vào Khoa Sử - được “phận nhờ” (cháu không chỉ đọc sách giáo khoa phổ thông (“ngắn quá”) mà đã dám đọc “Tiến trình lịch sử Việt Nam") và người già như tôi, ông Hãn, ông Lâm cũng sẽ được ngậm cười ở... thế giới bên kia!
4. Giáo trình mới không nên viết, chẳng hạn "Văn hoá Đông Sơn là văn hoá Lạc Việt”, “Trống đồng Đông Sơn là trống đồng Lạc Việt” như giáo trình Đại học Văn khoa thời thầy tôi, cố GS. Đào Duy Anh rồi gắn cái văn hoá đó với thời Văn Lang - Âu Lạc.
Tôi có điên không? Có lẽ tôi cũng có máu điên trong người, nhưng... tôi tự cho là... vẫn còn "tỉnh".
Học giả ngoại quốc biết bao lần đã nói vào cái "bản mặt" tôi rằng: Cái "giọng" của giới sử các ông Việt Nam rất chi là... "chauvin", "nationalist", tuy... ông là đỡ hơn cả đấy!
ở Đại học Tổng hợp Hà Nội, tôi đã nêu luận điểm từ khi thành lập ngành Khảo cổ: Khi anh/ chị nghiên cứu những nền văn hoá tiền - sơ sử thì... hãy tạm thời quên đi những biên giới chính trị của các quốc gia hiện nay. Văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn chẳng hạn là của toàn Đông Nam á, cả lục địa và hải đảo.
Đến khi được cấp trên chỉ thị thành lập ngành Văn hoá học, tôi lại nêu luận điểm: Không gian văn hoá và không gian chính trị là khác nhau. Và rất thường khi Biên giới chính trị cắt "ngang xương" một không gian văn hoá, ở châu Phi là vậy. ở Đông Nam á, ở Việt Nam cũng là vậy.
Khi còn sinh thời GS. Phạm Huy Thông, lúc ông làm Viện trưởng Viện Khảo cổ học, tôi đã nài được ông cho thuyết trình ở Viện rằng: Cái không gian trống đồng loại I Heger là nằm trong một "tam giác đồng” (tôi nhái khái niệm “Tam giác Vàng") mà 3 đỉnh là Vân Nam - Việt Nam - Lưỡng Quảng ngày nay và nhấn mạnh rằng: ở thời đó nó vẫn là một không gian "Phi Hoa - Phi ấn", gọi là "Không gian Việt cổ" cũng được, nhưng Việt cổ là một khái niệm khá mơ hồ, chỉ nhìn "cái răng, cái tóc là góc con người" thì cũng đủ biết: “Người Đông Sơn” vừa búi tóc (tư liệu Việt Khê, Hải Phòng), vừa xoã tóc (tư liệu Đào Thịnh, Yên Bái), vừa tết tóc (tư liệu nhiều dao găm cán hình người Đông Sơn), có răng nhuộm đen, có răng để trắng: Bao nhiêu "mộ thuyền" đã chứng tỏ điều đó.
"Sống xen kẽ giữa các tộc người" ở Việt Nam, dù Nam á, Nam Đảo hay các ngữ hệ Tạng Miến... gì gì đi nữa đã là một quy luật lịch sử lâu đời để nhà khảo cổ học Thụy Điển, GS. Olov Janse rút ra một kết luận bất hủ: "Vietnam, Carrefour des Peuples et des Civilisations".
Việt Nam hôm nay có sự thống nhất văn hóa và ngôn ngữ, nhưng cũng có sự đa dạng, nếu không muốn nói “huỵch toẹt” ra là có cái “đa văn hóa” (multicultural) và “đa ngôn ngữ” (multilinguistic).
Thì có sao đâu ở trong một cái khuôn thể chế chính trị thống nhất, dân chủ?
Vậy những người anh hùng ở Khoa Sử nên viết "Lịch sử Việt Nam" chứ không phải là "Lịch sử người Việt" cho dù tộc Kinh - Việt hiện nay là chủ thể quốc gia. Mà cái gọi là người Việt như ta hiểu cũng xuất hiện khá muộn mằn trong lịch sử... và cũng đa dạng lắm, từ Bắc - Trung tới miền Nam đất nước.
Từ lâu, người Pháp đã phân biệt Histoire de France và Histoire des Francais. Ta nên tham khảo họ. Người Nhật (và cả người Hoa) cũng đã nhìn thấy nhiều “văn hoá Trung Hoa” rồi đấy (cùng lắm thì họ gọi là "Một văn hoá Trung Hoa có nhiều local cultures".
5. Cho nên cách viết "Lịch sử Việt Nam" nói chung, "Lịch sử văn hoá Việt Nam" nói riêng rất nên là cách viết một thời không gian liên tục kiểu A.Einstein, hay, nói theo một hướng tiếp cận hiện đại, là kết hợp nghiên cứu Lịch đại (Diachronic Studies) và nghiên cứu Vùng - Tiểu vùng (Area Studies).
Đừng “lờ” một hiện tượng lịch sử quan trọng và kéo dài "Nam tiến" (The March to the South) hay còn gọi là Migration horizontale của người Kinh - Việt trong khi ở các nhóm H’mong - Yao, thì đó lại là migration vertical (Di cư theo chiều dọc).
Đừng dùng các khái niệm đã mòn, thậm chí cái thủ thuật "đánh tráo khái niệm” bằng ngôn từ điêu xảo.
Hãy gọi sự vật bằng chính cái tên của nó.
Nếu có một lời thề chung cho các nhà sử học thì, theo tôi, nên là: "Trung thực và dũng cảm".
Thư bất tận ngôn. Ngôn bất tận ý!
Hà Nội, 23/6/2002
GS. Trần Quốc Vượng
[Nguồn: Bản tin ĐHQG Hà Nội - số 173, tháng 7/2005]
GS. Hà Văn Tấn
Ai ai đều đã bằng câu hết
Nước chẳng còn có Sử Ngư!
Đó là hai câu thơ cuối cùng trong bài thơ cuối cùng của mười bốn bài “Mạn thuật” mà Nguyễn Trãi đã để lại cho chúng ta. Thật là cay đắng, khi mà mọi người bị uốn cong như lưỡi câu, và chẳng còn ai nói lên sự thật nữa, chẳng còn ai như Sử Ngư nữa. Sử Ngư là người chép sử nước Vệ đời Xuân Thu, nổi tiếng về thẳng thắn và trung thực. Khổng Tử đã từng khen: “Trực tai Sử Ngư!” (Sử Ngư thẳng thay!).
Cho đến hôm nay, đọc câu thơ Nguyễn Trãi, chúng ta vẫn như tê tái với nỗi đau của ông. Làm sao có thể sống trong một xã hội mà mọi sự thật đều bị che đậy hay xuyên tạc. Trong những thời kỳ như vậy, người chép sử, nhà sử học, những người có nhiệm vụ nói lên sự thật, không biết bị dằn vặt đến thế nào?
Ngày nay, chúng ta đang sống trong một giai đoạn mà nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật là yêu cầu của nhân dân, của đất nước. Đã đến lúc những người chép sử, những nhà sử học phải tự hỏi rằng: “Sử bút” của mình đã thật nghiêm chưa, đã viết đúng sự thật lịch sử hay chưa?
Lịch sử là khách quan. Sự kiện lịch sử là những sự thật được tồn tại độc lập ngoài ý thức của chúng ta. Nhưng sự nhận thức lịch sử lại là chủ quan. Và người ta chép sử vì những mục đích khác nhau.
Từ thời cổ đại, người ta đã đặt yêu cầu cho việc chép sử là nêu gương cho nhân dân và đem lại bài học cho những nhà cầm quyền. Polibius, nhà sử học Hy Lạp vào thế kỷ II trước công nguyên, đã nhận thấy rằng sử học có tính pagamtikos, tức thực dụng. Trong các vị thần Muses Hy Lạp, thì nữ thần Clio là thần sử học. Nhưng tên Clio là bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp là Kleio, nghĩa là ca tụng, biểu dương.
Ở Phương Đông, Khổng Tử viết kinh Xuân Thu, bộ sử lớn của Trung Quốc cổ đại, là cốt để “bao biếm”, tức là khen và chê các hành vi của của các nhân vật lịch sử. Cái mẫu mực sử học thực dụng còn tồn tại rất lâu dài về sau, nhất là ở phương Đông. Ta hãy đọc những dòng của Phạm Công Trứ trong bài tựa sách Đại Việt sử ký tục biên: “Vì sao phải viết quốc sử? Vì sử chủ yếu ghi chép công việc. Có chính trị của một đời tất phải có sử của một đời. Mà sự ghi chép của sử giữ nghị luận rất nghiêm, tô điểm việc trí trị thì sáng tỏ ngang với mặt trời mặt trăng, răn đe kẻ loạn tặc thì ráo riết như sương thu lạnh buốt, người thiện biết thì có thể bắt chước, người ác biết thì có thể tự răn, quan hệ với chính trị không phải là ít. Cho nên mới làm ra quốc sử”.
Một mục đích thực dụng như vậy đặt ra cho sử học tất nhiên đã ngăn cản không ít việc nói lên sự thật lịch sử. Thường thì người ta chỉ chọn chép những sự kiện nào có lợi cho đường lối chính trị, hoặc là làm thay đổi sự kiện cho phù hợp với ý muốn của nhà cầm quyền.
Nhưng ngay trong hàng ngũ các nhà sử học thời cổ, cũng đã có người cho rằng cần làm thế nào để phục vụ đời sống và chính trị không làm hại đến thiên chức nói sự thật của nhà sử học. Chẳng những thế, họ còn cho rằng sử có chép đúng sự thật mới phục vụ tốt cho đời sống và chính trị. Ciceron ở La Mã đã gắn historia magistra vitae (lịch sử chính yếu của cuộc sống) với yêu cầu đạt tới lux veritatis (ánh sáng của sự thật). Trong Deoratore, ông đã viết: “Luật thứ nhất của chép sử là không dám nói cái giả mạo, luật thứ hai là dám nói tất cả những gì là sự thật”.
Còn Lê Quý Đôn của chúng ta, ở đầu tập Đại Việt thông sử, đã dẫn một loạt các câu nói của các nhà sử học đời trước để coi của các nhà sử học đời trước để coi việc chép đúng sự thật như một tôn chỉ của việc soạn sử. Và để giữ được tôn chỉ đó, cuối cùng, ông đã chép lại câu của Yết Hề Tư đời Nguyên: “Việc soạn sử phải lấy việc dùng người làm gốc. Người có văn học mà không biết cách chép sử thì không thể cho dự vào sử quán. Người có văn học, lại kiêm biết cách soạn sử, nhưng bụng dạ bất chính, cũng không được dự”.
Từ thế kỷ XVII, sử học thế giới đạt đến mẫu mực phê phán, đặt yêu cầu đem lại sự thật của quá khứ. Và từ cuối thế kỷ XIX, khi sử học đạt tới các mẫu mực cấu trúc và biện chứng, các hình ảnh của quá khứ mà sử học khôi phục được còn phải được đặt trong cái toàn thể và sự vận động.
Từ khi chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch sử mácxít ra đời, khám phá ra cơ chế của sự phát triển xã hội, các nhà sử học được cung cấp một mô hình giải thích lịch sử có tính nhất thể - năng động, kết hợp cả hai mặt cấu trúc và biến đổi. Sử học vươn tới phát hiện quy luật và nhờ đó, sử học không những nhận thức được quá khứ mà còn chuẩn bị cho những khả năng dự báo. Nhưng sử học muốn thực hiện được những chức năng đó, khảo sát con đường đã qua và góp phần nhận thức con đường sắp tới, một điều kiện cơ bản là phải biết sự thật và nói lên sự thật.
Nhưng biết sự thật không dễ, và dám nói lên sự thật nhiều khi càng khó hơn. Với ý của Yết Hề Tư mà Lê Quý Đôn đã dẫn nhưng nói theo ngôn ngữ hiện đại thì như thế này: Muốn viết sử, phải biết phương pháp sử học, và trước hết, phải là người trung thực chứ không phải là tên cơ hội.
Viết sử là một nghề, nói như người Pháp là métier d’historien. Người viết sử phải được luyện rèn tay nghề. Các sách dạy nghề, tức các sách viết về phương pháp sử học, thường nói đến hai bước cơ bản trong công tác sử học: bước thứ nhất là từ sử liệu, khôi phục sự kiện, bước thứ hai là giải thích và đánh giá sự kiện.
Ngay từ bước thứ nhất, đã có những khả năng dẫn nhà sử học xa rời sự thật. Đó là vì sử liệu thiếu, và phổ biến hơn, vì sử liệu không được phê phán nghiêm túc. Người ta chia sử liệu ra làm hai loại: sử liệu trực tiếp và sử liệu gián tiếp.
Sử liệu trực tiếp xuất hiện cùng thời với sự kiện. Chẳng hạn trống đồng Ngọc Lũ, khẩu pháo Điện Biên, hay văn bản Hiệp nghị Paris…là sử liệu trực tiếp.
Còn sử liệu gián tiếp là sử liệu nói đến sự kiện này qua một người thông tin gián tiếp, tức tác giả sử liệu. Loại sử liệu này cần được giám định cẩn thận, vì thông tin nhận được đã qua trung gian người thông tin. Chẳng hạn hồi ký là sử liệu gián tiếp. Ở đây, các sự kiện xảy ra không đồng thời với sử liệu, tức là trước lúc hồi ký được viết. Nhà sử học Liên Xô M.N.Tchernomorski đã viết cả một quyển sách dày, có đầu đề Hồi ký với tư cách là sử liệu lịch sử, để trình bày các phương pháp nghiên cứu nguồn sử liệu gián tiếp này.
Hiện nay, nhiều công trình sử học của chúng ta đã sử dụng những nguồn sử liệu gián tiếp một cách thiếu thận trọng. Sử liệu gián tiếp bao gồm cả những lời kể về sau của những người đã chứng kiến sự kiện. Các nhà nghiên cứu lịch sử địa phương hay lịch sử hiện đại, lịch sử Đảng thường sử dụng nguồn tài liệu này. Những lời kể như vậy cần được phân tích so sánh với các sử liệu khác, nếu không, dễ dẫn đến tình trạng là cùng một sự kiện, có thể được trình bày rất khác nhau. Tình hình thường xảy ra là nếu người thông tin là người hiện có uy lực chi phối ở địa phương thì lịch sử sẽ được viết theo cách nhìn nhận của người đó.
Đối với các thời kỳ xa xưa, sự sai lầm càng dễ xảy ra, vì sử liệu càng hiếm hơn, khó kiểm tra hơn. Trong nhiều trường hợp để khôi phục sự kiện, nhà sử học phải vận dụng đến sự suy đoán logic, và thậm chí, cả sự tưởng tượng. Nhưng trong trường hợp sự kiện được trình bày mới chỉ là giả thuyết, thì điều đó phải được nói rõ, đừng để người khác tin rằng đó đã là sự thật đích xác. Trong nhiều công trình sử học hiện nay, cái mới chỉ là giả thuyết với cái đã là sự thật, thường bị làm lẫn lộn.
Chẳng hạn, không một nhà sử học nào có thể chứng minh được rằng bài thơ Nam quốc sơn hà Nam đế cưlà của Lý Thường Kiệt. Không có một sử liệu nào cho biết điều đó cả. Sử cũ chỉ chép rằng trong trận chống Tống ở vùng sông Như Nguyệt, một đêm quân sĩ nghe tiếng ngâm bài thơ đó trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát. Có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt đã cho người ngâm thơ. Đi xa hơn, có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt là tác giả bài thơ. Nhưng đó chỉ là đoán thôi, làm sao nói chắc được bài thơ đó là của Lý Thường Kiệt. Thế nhưng, cho đến nay, mọi người đều tin rằng đó là sự thật, hay đúng hơn, không ai dám nghi ngờ đó không phải là sự thật.
Ta còn có thể dẫn ra nhiều ví dụ khác về những sự kiện chắc là không thật, thậm chí không thật mà nay nghiễm nhiên là “sự thật”, ngay cả trong các giai đoạn lịch sử gần đây.
Các nhà sử học thường dựa chủ yếu vào nguồn sử liệu viết. Mà nước ta, các văn bản sử liệu thường bị biến chuyển ghê gớm. Đó là chưa kể sự xuất hiện những tài liệu giả. Nếu trình bày sự kiện mà dựa vào sử liệu đã bị biến đổi hay sử liệu giả thì hiển nhiên không tránh khỏi sai lầm.
Chẳng hạn, quyển Binh thư yếu lược hiện có, được coi là của Trần Hưng Đạo, là một quyển sách giả từ đầu chí cuối. Các nhà nghiên cứu ở Viện Hán Nôm vừa làm một việc có ý nghĩa là chứng minh được quyển sách giả mạo đó đã hình thành như thế nào. Thế nhưng khi viết về cuộc kháng chiến chống Nguyên hay về Trần Hưng Đạo, một số người vẫn dùng quyển sách giả này. Thậm chí có lãnh tụ đã trích dẫn sách này trong diễn văn của mình. Đó cũng là lỗi của các nhà sử học, họ đã không thuyết minh đầy đủ khi cho in bản dịch tác phẩm giả mạo này.
Còn các văn bản bị biến đổi, sửa chữa qua các đời thì rất nhiều. Thậm chí cả các văn bản hiện đại. Ngay bức thư của chủ tịch Hồ Chí Minh gửi các em học sinh mà hiện nay trong các trường phổ thông vẫn học, vẫn trích, cũng đã sai, khác quá nhiều với văn bản đầu tiên còn được cất giữ ở Cục lưu trữ trung ương. Các văn kiện khác cũng vậy. Về điểm này, cần học tập thái độ của Mác và Ăngghen khi cho xuất bản Tuyên ngôn Đảng cộng sản năm 1872, hai ông viết rằng: “Tuyên ngôn là một tài liệu lịch sử mà chúng tôi không có quyền sửa lại”. Các nhà sử học đòi hỏi phải có một thái độ như vậy đối với các văn kiện lịch sử.
Trên đây là chuyện phê phán sử liệu và miêu tả sự kiện. Thực ra sự thật dễ bị che lấp hay xuyên tạc là ở bước thứ hai, giải thích và đánh giá sự kiện. Đó là vì công việc này phụ thuộc nhiều vào mặt chủ quan của nhà sử học như nhận thức, quan điểm và nhân cách.
Các nhà sử học chúng ta thường tự coi là người mácxít nhưng bệnh thiên lệch lại hay dễ mắc. Mà thiên lệch, cường điệu một cách phiến diện một mặt nào đó, lại là đặc trưng của chủ nghĩa duy tâm. Cũng chính vì vậy nhiều sự thật lịch sử đã bị bỏ qua.
Trong một thời gian dài, do một động cơ tốt là phải tập trung tinh lực cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các nhà viết sử chỉ chú ý đến các trang sử chống ngoại xâm trong lịch sử dân tộc. Không chỉ trong các công trình chuyên luận, mà cả trong các bộ thông sử, cũng chỉ tập trung khai thác truyền thống đánh giặc, giữ nước. Một nhà sử học Liên Xô, khi bình luận một quyển sử Việt Nam do Uỷ ban Khoa học xã hội xuất bản, đã có một nhận xét thú vị là các bản đồ trong sách, trừ một bản đồ hình thế chung, đều là bản đồ các trận đánh. Trong thời gian qua, hàng loạt các vấn đề về kinh tế - xã hội của lịch sử Việt Nam đã không được chú ý đầy đủ.
Cũng là đề cao truyền thống, chúng ta thường chỉ đánh giá một chiều, chỉ nhìn thấy cái hay cái tốt, dường như người ta không chấp nhận có truyền thống xấu. Đến nay, trong công cuộc xây dựng đất nước, chúng ta đang cần đánh giá đúng đắn về con người Việt Nam mà phần lớn là tính cách, khả năng đã được quy định qua lịch sử. Phải phân tích trung thực và khoa học các ưu điểm và nhược điểm của con người Việt Nam, chứ không phải cái gì cũng khen.
Chúng ta đã được đọc cả một quyển sách dày đề cao truyền thống khoa học - kỹ thuật Việt Nam. Tôi nghĩ rằng trong lịch sử, nhân dân Việt Nam cũng đã đạt được một số thành tựu về kỹ thuật. Nhưng đề cao quá đáng truyền thống khoa học kỹ thuật của người Việt Nam xưa thì là một sự tô hồng không thật. Vả lại, đề cao ông nghè Vũ Hữu cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI đã tính đủ số gạch xây tường không thừa thiếu một viên, khi trên thế giới, không phải chỉ ở châu Âu (thời Copernic) mà cả ở A-rập (thời Al Kashi) đã có những công trình toán học cao, thì chỉ là làm một việc lố bịch.
Rồi người ta lại đề cao cả những truyền thống của làng xã cổ truyền, nhấn mạnh tính dân chủ của nó. Không hiểu vì sao các nhà sử học tự coi mình là mácxít lại có thái độ “dân tuý” đến như thế. Ngày nay, khi cái cung cách, cái tâm lý “việc làng” đang khoác áo xã hội chủ nghĩa đi giữa chúng ta, các nhà sử học phải xem xét lại thái độ của mình trong việc đánh giá cao làng xã cổ truyền.
Lịch sử Việt Nam anh hùng thật, vinh quang thật, nhưng trình bày nó lúc nào, chỗ nào cũng tốt đẹp cả, rực sáng cả thì quả là không thật. Nhà sử học không thể chỉ ngâm ngợi những thiên anh hùng ca mà không biết đến những khúc bi ca trong lịch sử.
Cũng thường thiên lệch, khi chúng ta đánh giá các nhân vật lịch sử. Con người là cả một hệ thống những mối liên hệ phức tạp, bị quy định bởi các điều kiện xã hội, tự nhiên và lịch sử. Thiếu một sự đánh giá xuất phát từ chủ nghĩa lịch sử dường như là căn bệnh chung của chúng ta. Một số người đã chê trách các nhân vật lịch sử vì họ không giống ta. Một số lại quá yêu các nhân vật đó, đến chỗ miêu tả tư duy và hành động của họ cứ y như là họ đã được học tập chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đã là con người, không phải là ông thánh, thì có lúc đúng, lúc sai. Đó là chuyện thường tình. Nhưng thật là không công bằng khi chỉ vì khuyết điểm của thời kỳ này, ta sổ toẹt hết cả công lao của nhân vật đó, khi ở thời kỳ khác, đóng góp của người đó là rõ ràng, không thể chối cãi. Nhà sử học Mácxít không thể chấp nhận một thái độ như vậy. Tại sao chúng ta không noi gương Lênin trong việc đánh giá nhân vật như Plêkhanốp?
Chúng ta hãy nhớ lời Mác: “Khoa học càng vô tư và không thiên vị thì càng phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của người công nhân”. Một nền sử học muốn tự biểu hiện là mácxít chân chính, chẳng những phải đặt cho mình nhiệm vụ khám phá chân lý của lịch sử, mà còn phải tỏ rõ khả năng đạt được sự thật khách quan.
Cho đến nay, nhiều học giả tư sản vẫn nghi ngờ tính khách quan của sử học. Ngay người bạn của chúng ta là Bertrand Russell cũng nói rằng: “Sử học chỉ là dẫn ra những ngu xuẩn ngày hôm qua để giúp con người chịu đựng được những ngu xuẩn ngày hôm nay”.
Chúng ta phải bác bỏ những luận điểm đó bằng cách chứng minh rằng nền sử học của chúng ta có khả năng đạt được sự thật khách quan, chứ đừng tiếp tục góp thêm chứng cứ cho những luận điểm đó.
Tạp chí Tổ quốc, tháng giêng, 1988.
In lại trong: Một số vấn đề Lý luận Sử học, Nxb ĐHQGHN, 2007
PGS. TS. Hoàng Hồng
Trường ĐHKHXH&NV - ĐHQG Hà Nội
Nhận thức lịch sử có thể là nhận thức khách quan hay không luôn là câu hỏi lớn đặt ra cho mọi thời đại sử học. Những lí giải khác nhau thậm chí là mâu thuẫn nhau của các trường phải sử học trên thế giới về tính chất của nhận thức lịch sử cho thấy đây là vấn đề phức tạp và không dễ dàng có sự đồng thuận. Nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình hình trên xuất phát từ hai điểm. Thứ nhất, đối tượng nhận thức của sử học là một hiện thực đã diễn ra trong quá khứ, chỉ xảy ra một lần và không lặp lại. Giữa nhà sử học với đối tượng nghiên cứu của mình luôn có một khoảng cách về thời gian, đó là khoảng cách giữa quá khứ và hiện tại. Nhà sử học (chủ thể nhận thức) không thể quan sát trực tiếp đối tượng nhận thức vì đối tượng nhận thức của nhà sử học không còn hiện hữu. Điều này dẫn đến một câu hỏi gây tranh luận là: Lịch sử tồn tại hay không tồn tại. Thứ hai, chủ thể nhận thức lịch sử - nhà sử học, luôn bị chi phối bởi nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất là sự chi phối của hệ thống giá trị. Các nhà sử học thừa nhận các hệ thống giá trị khác nhau tất yếu dẫn đến những kết quả nhận thức lịch sử khác nhau, vì thế đặt ra vấn đề là có sự khách quan trong nhận thức lịch sử không và đâu là thực tiễn để kiểm tra chân lí lịch sử?
Nửa đầu thế kỉ XIX, trường phái Sử học khách quan do nhà sử học Đức L. V. Ranke xây dựng đã nhấn mạnh đến yếu tố khách quan trong sử học. Ranke cho rằng, sử học không đánh giá quá khứ cũng không dạy dỗ người đương thời, nhiệm vụ của nhà sử học là lạnh lùng mô tả khách quan sự kiện “như nó đã tồn tại trên thực tế” (Wiees eigentlich ge wesen). Từ những sự kiện đó mà lịch sử được cấu tạo nên và để cho người đọc tự diễn giải. Nhà sử học không cần đưa vào bất cứ một suy diễn lí thuyết nào. Con đường nhận thức lịch sử được Ranke luận giải theo tinh thần của chủ nghĩa khách quan tuyệt đối như sau: (1) Lịch sử bao gồm những sự kiện tồn tại khách quan, nó có một hình dáng cho trước, một cấu trúc xác định và tiếp cận trực tiếp với tri thức. (2) Không có sự phụ thuộc lẫn nhau giữa chủ thể nhận thức (nhà sử học) với đối tượng nhận thức (sự kiện lịch sử). Nhà sử học cần thoát khỏi sự ràng buộc của xã hội, điều đó cho phép họ khách quan khi mô tả các sự kiện. (3) Mối quan hệ nhận thức phù hợp với một khuôn mẫu máy móc, nhà sử học mô tả sự kiện một cách thụ động như chiếc gương phản chiếu hình của một vật, như chiếc máy ảnh chụp một cảnh nào đó.
Trường phái Sử học thực chứng nửa sau thế kỉ XIX kế thừa những luận điểm của trường phái Sử học khách quan nhưng đặt trọng tâm của sự khách quan vào các tài liệu lịch sử. Langlois và Seignobos, hai đại biểu lớn nhất của trường phái Sử học thực chứng nêu khẩu hiệu “Lịch sử được tạo ra từ các tài liệu” (L’histore se fait avec des documents), mô tả lịch sử là mô tả trật tự của các tài liệu, hoạt động cơ bản của nhà sử học là làm việc với tài liệu. Trường phái Sử học thực chứng xây dựng một hệ thống qui tắc mang tính chất kĩ thuật để khai thác thông tin lịch sử từ các văn bản tài liệu. Khi chứng minh được sự xác thực của tài liệu và độ tin cậy của thông tin lịch sử trong tài liệu thì nhà sử học có thể kết luận về sự khách quan trong sử học.
Trường phái Sử học phản thực chứng đầu thế kỉ XX bác bỏ hoàn toàn những luận điểm của Sử học thực chứng. Họ không công nhận có một khái niệm “khách quan” trong sử học và luôn nhấn mạnh đến yếu tố chủ quan của nhà sử học. Hai luận điểm cơ bản của họ là: (1) Bộ phận quan trọng nhất của hiện thực lịch sử là tư tưởng, ý thức của con người, do đó nhận thức lịch sử chủ yếu là nhận thức tư tưởng, ý thức của con người; (2) Lịch sử trên thực tế không còn tồn tại nên quá trình nhận thức lịch sử không phải là sự phản ánh mà là sự cải biên lại, sắp xếp lại và giản lược lịch sử. Đóng vai trò quan trọng trong nhận thức lịch sử là sự tưởng tượng hư cấu, suy diễn thông qua tư tưởng của người nhận thức nên “mọi lịch sử đều là lịch sử tư tưởng” hoặc “mọi lịch sử đều là lịch sử hiện đại”.
Trường phái Sử học mới hoạt động trong nửa sau thế kỉ XX, muốn xây dựng một kết cấu lịch sử 3 tầng bao gồm toàn bộ những yếu tố liên quan đến hoạt động của con người: (1) Kinh tế - nhân khẩu; (2) Trạng thái và xu thế xã hội; (3) Văn hoá, tôn giáo, chính trị. Khi luận giải về tính chất của nhận thức lịch sử, Sử học mới nhấn mạnh trước hết đến vai trò chủ quan của người nhận thức và coi đó là yếu tố bao trùm toàn bộ hoạt động sử học. Sự chủ quan của nhận thức lịch sử thể hiện ở hai điểm. Thứ nhất, trong mọi công trình sử học đều có dấu ấn tư tưởng, tình cảm cá nhân của người viết sử. Thứ hai, nhà sử học là người lựa chọn và định đoạt lịch sử. Trong đại dương mênh mông các sự kiện, nhà sử học chỉ trục vớt lên những sự kiện mà theo quan điểm của ông ta là quan trọng và có tính lịch sử, vô số các sự kiện khác sẽ bị chìm vào quên lãng. Vì thế, Sử học mới khẳng định rằng, viết sử là cách duy nhất để tạo ra lịch sử.
Sử học mới thừa nhận có nhân tố khách quan trong sử học nhưng lại cho rằng đó không phải là tính khách quan của đối tượng nghiên cứu mà chỉ là tính khách quan của quá trình nghiên cứu, của mối liên hệ giữa sự thực và giải thích, giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. E. N. Carr, một đại diện của trường phái Sử học mới định nghĩa sử học “là quá trình liên tục không ngừng tác động lẫn nhau giữa nhà sử học với lịch sử, là sự đàm thoại, hỏi và trả lời không bao giờ ngừng giữa hiện tại và quá khứ”.
Quá trình tương tác giữa nhà sử học với lịch sử có thể tìm ra chân lí hay không? Sử học mới lí giải rằng, khi nhà sử học nhận biết được những hạn chế mang tính qui định của các thời đại trong quá khứ, trong hiện tại, thậm chí là trong cả tương lai, thiết lập một hệ thống chuẩn mực để giải thích và đánh giá lịch sử, hệ thống này mang tính xuyên suốt và không bị tác động của những hạn chế thời đại, đến lúc đó, nhà sử học đạt được sự khách quan.
Trường phái Sử học mác-xit ra đời dưới ảnh hưởng trực tiếp của chủ nghĩa Mác. Dựa trên cơ sở các nguyên lí của chủ nghĩa duy vật lịch sử và thuyết phản ánh của Lê nin, Sử học mác-xít khẳng định sự tồn tại khách quan của lịch sử và khả năng đạt tới chân lí trong nhận thức lịch sử. Các luận điểm cơ bản của Sử học mác-xít như sau:
- Lịch sử (quá trình phát triển của xã hội loài người) là một hiện thực đã diễn ra trong quá khứ, tồn tại độc lập khách quan, là đối tượng nghiên cứu của sử học.
- Khoa học lịch sử có khả năng nhận thức được lịch sử nhưng không phải là nhận thức trực quan, tuyệt đối mà là quá trình tiệm cận với lịch sử, chân lí trong sử học mang tính chất tương đối.
- Nhà sử học, chủ thể của nhận thức lịch sử, luôn để lại dấu ấn chủ quan trong tất cả các khâu của hoạt động nhận thức. Cũng giống như mọi thành viên xã hội khác, nhà sử học luôn thuộc về một giai cấp nhất định và do đó luôn mang quan điểm giai cấp để khôi phục sự kiện và giải thích lịch sử. Trong thời hiện đại, nhà sử học dựa trên lập trường của giai cấp vô sản để lí giải lịch sử thì có khả năng thiết lập được sự phù hợp giữa cái chủ quan của người nghiên cứu với cái khách quan của hiện thực lịch sử. Lập trường giai cấp chính là tính đảng trong sử học mác-xít và ở đây tính đảng và tính khoa học có sự thống nhất.
Các trường phái sử học trên đây đều đã hoặc đang chi phối hoạt động của sử học. Trong tiến trình sử học thế giới, các trường phái này kế tiếp nhau hoặc đồng thời tồn tại, hoạt động một cách độc lập, ảnh hưởng trong một phạm vi nhất định và không thừa nhận các lập luận của nhau.
Mỗi trường phái sử học, xét ở mặt nào đó, có thể được coi như một giai đoạn phát triển trong tiến trình sử học của nhân loại. Chắt lọc từ những điểm tích cực của các trường phái, có thể nêu những yếu tố ảnh hưởng hoặc qui định đến sự khách quan trong nhận thức lịch sử như sau:
Vai trò của sử liệu
Khái niệm lịch sử, xét ở góc độ bản thể luận là một hiện thực đã diễn ra trong quá khứ, tồn tại độc lập khách quan, là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học trong đó có sử học. Khi tiếp cận với lịch sử, nhà sử học tiếp cận với một đối tượng không còn hiện hữu. Việc xác định sự kiện lịch sử có tồn tại hay không phải dựa vào những dấu tích lịch sử từ quá khứ để lại, đó là những thông tin lịch sử từ các nguồn sử liệu. Trong qui trình nghiên cứu lịch sử, sử liệu đóng vai trò trung gian giữa lịch sử và nhà sử học:
Lịch sử Sử liệu Nhà sử học
Lịch sử được phản ánh trong sử liệu, nhà sử học biết được lịch sử thông qua sử liệu. Như vậy, sử liệu là chứng cứ để xác định sự tồn tại của lịch sử. Vì tính chất đặc biệt quan trọng này của sử liệu nên làm việc với sử liệu là công việc quan trọng hàng đầu có ý nghĩa quyết định của nhà sử học trong quá trình khôi phục lịch sử. Sử liệu là tài sản quí giá nhất của nhà sử học.
Nhà sử học làm việc với sử liệu là thực hiện những thao tác nghiệp vụ để khai thác được những thông tin lịch sử từ các nguồn sử liệu. Sử liệu học chia các nguồn sử liệu thành hai nhóm: Sử liệu trực tiếp và sử liệu gián tiếp. Sử liệu trực tiếp cung cấp những thông tin lịch sử trực tiếp cho người nghiên cứu, giữa người nghiên cứu với lịch sử không có vai trò thông tin trung gian. Sử liệu gián tiếp cung cấp những thông tin lịch sử gián tiếp cho người nghiên cứu, giữa người nghiên cứu với lịch sử có vai trò thông tin trung gian. Trước các nguồn sử liệu trên, nhà sử học nhất thiết phải có ý thức phê phán. Việc nắm vững qui trình phê phán sử liệu và biết áp dụng trong các trường hợp cụ thể khi làm việc với nguồn là phẩm chất hàng đầu của nhà sử học.
Những thông tin lịch sử tin cậy sẽ giúp nhà sử học khôi phục được những sự kiện lịch sử đúng với thực tế. Khi làm được điều đó thì bản thân sự kiện đã nói được nhiều điều. Sự kiện lịch sử được xây dựng nên trước hết bởi những “chất liệu” bất biến. Các yếu tố thời gian, không gian, nội dung sự cố chỉ một lần xuất hiện và không lặp lại, đó là “phần cứng” của sự kiện. Các yếu tố này khiến cho bất kì một ý đồ nào muốn làm sai lệch nhận thức thì cũng khó có thể thực hiện. Có thể coi đây là bộ phận của thực tiễn để kiểm tra chân lí trong sử học.
Vai trò của tri thức ngoài sử liệu
Tri thức là một trong những cơ sở quan trọng để con người nhận thức thế giới nói chung và hiện thực lịch sử nói riêng. Nhà sử học khi nhận thức lịch sử phải dựa trên một nền tảng tri thức nhất định. Nền tảng tri thức đó là tri thức tổng quát của nhà sử học hay tri thức ngoài sử liệu. Tri thức tổng quát của nhà sử học được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau: Tri thức thường ngày, tri thức lịch sử (hay tri thức chuyên môn) và tri thức của các ngành khoa học khác. Kết quả nhận thức lịch sử được qui định bởi một phần tri thức tổng quát của nhà sử học. Nhà sử học có tri thức học vấn cao thì khả năng khôi phục lịch sử và nhận xét đánh giá lịch sử sẽ thuận lợi và chính xác hơn.
Quá trình nhận thức lịch sử và tích luỹ tri thức lịch sử của nhà sử học không diễn ra một chiều mà là chu trình khép kín. Dựa trên nền tảng tri thức tổng quát vốn có của mình, nhà sử học nhận thức lịch sử, rút ra những tri thức mới về lịch sử và những tri thức này, đến lượt nó, lại quay trở lại làm phong phú thêm kho tàng tri thức của nhà sử học, tạo nền tảng vững chắc hơn cho các quá trình nhận thức lịch sử tiếp theo. Quá trình này diễn ra không ngừng và theo thời gian, vốn tri thức tổng quát của nhà sử học càng trở nên nhiều hơn. Lịch sử luôn được viết lại do những tri thức lịch sử ngày một tăng, tri thức lịch sử tăng thì nhận thức lịch sử ngày một chính xác. Như vậy, tri thức của nhà sử học, với sự bổ sung không ngừng từ kết quả nhận thức, góp phần làm tăng sự khách quan trong nhận thức lịch sử của nhà sử học.
Trong vốn tri thức ngoài sử liệu của nhà sử học, tri thức của các ngành khoa học khác, nhất là các khoa học xã hội nhân văn, có vai trò đặc biệt với nhận thức lịch sử. Các ngành khoa học xã hội nhân văn có mục tiêu chung là mang lại những hiểu biết về con người và xã hội loài người. Trong quá trình hoạt động, tri thức của các ngành khoa học này tăng lên không ngừng và bổ sung cho nhau (liên ngành) làm kết quả nghiên cứu của các ngành ngày càng phù hợp với nhau, từ đó hình thành những cấu trúc lí thuyết chung mà nhà sử học có thể khai thác để bổ sung hoặc soi dọi kết quả nghiên cứu của mình.
Khi viết về tầm quan trọng của tri thức ngoài sử liệu với kết quả nhận thức lịch sử, nhà sử học Topolski đánh giá rằng: “Chỗ dựa chủ yếu cho tính khách quan trong sử học nằm trong lĩnh vực tri thức ngoài sử liệu”.
Vai trò của chủ thể nhận thức
Bao trùm trong nhận thức lịch sử là vai trò chủ quan của nhà sử học. Nhà sử học không phải là một chiếc máy ảnh hay một tấm gương soi để sao chụp hoặc phản chiếu trung thành hiện thực lịch sử. Hoạt động nghiên cứu lịch sử cũng không phải là hoạt động mang tính kĩ thuật cơ học. Nhà sử học, với tính cách là chủ thể hoạt động, nhận thức lịch sử thông qua lăng kính chủ quan của mình. Yếu tố chủ quan của nhà sử học thể hiện trong tất cả các công đoạn của qui trình nghiên cứu đặc biệt là khâu lựa chọn sự kiện, giải thích sự kiện và đánh giá lịch sử. Như vậy, để xác định nhận thức của nhà sử học có khả năng mang tính khách quan hay không cần kiểm tra bản thân nhà sử học bằng cách xem xét những yếu tố đã tác động đến quá trình nhận thức của nhà sử học đồng thời là thái độ của nhà sử học trước những tác động đó.
Yếu tố tác động lớn nhất đến nhận thức của nhà sử học là hệ thống giá trị. Trong mỗi con người luôn có một hệ thống giá trị, đó là những giá trị mà cá nhân thừa nhận. Hệ thống giá trị được cấu thành bởi 3 loại giá trị: (1) Giá trị phổ biến; (2) Giá trị nhóm; (3) Giá trị cá nhân.
Giá trị phổ biến (hay giá trị nhân loại) là những giá trị được sản sinh qua quá trình phát triển lâu dài của nhân loại, là kết tinh của những phẩm chất về đạo đức, văn hoá, lẽ sống, ứng xử... và được cả nhân loại thừa nhận bất kể dựa trên lập trường nào. Người thừa nhận những giá trị nhân loại thể hiện một lí trí lành mạnh, không đi ngược với xu thế phát triển tất yếu của nhân loại.
Giá trị nhóm: Đây là các nhóm xã hội, mỗi người đồng thời thuộc về nhiều nhóm xã hội khác nhau. Các nhóm xã hội có thể được hình thành từ địa vị xã hội, nghề nghiệp, hoàn cảnh sống, lứa tuổi, quyền lợi chung... Trong quá trình tồn tại, các nhóm xã hội sản sinh ra những giá trị riêng của nhóm. Quan trọng nhất đối với nhận thức của nhà sử học là sự chi phối của nhóm giai cấp và nhóm nghề nghiệp. Nhóm giai cấp là nói tới những người cùng giai cấp. Trong mọi thời đại luôn có giai cấp tiên tiến đứng ở trung tâm thời đại, quan điểm của giai cấp này thường là tiến bộ, tích cực, phù hợp với xu thế phát trỉển của lịch sử. Việc thừa nhận những quan điểm của giai cấp tiên tiến và dùng đó để luận giải lịch sử là cơ sở để đạt được sự khách quan trong nhận thức. Tuy nhiên không phải người thuộc giai cấp tiên tiến là mặc nhiên có tư tưởng tiên tiến. Tư tưởng tiên tiến là một loại giá trị đặc biệt, nó được xuất phát từ sự tồn tại của giai cấp tiên tiến nhưng đã được khái quát thành hệ thống tri thức khoa học, muốn có cần phải học hỏi. Điểm thuận lợi của những người thuộc giai cấp tiên tiến là họ có sẵn nền tảng kinh tế, xã hội để dễ dàng thừa nhận và tiếp nhận tư tưởng tiên tiến. Cần chú ý rằng, trong nhiều trường hợp, người không thuộc giai cấp tiên tiến nhưng bằng những cách thức khác nhau vẫn có thể nhận biết và mang lại cho mình tư tưởng tiên tiến.
Nhóm nghề nghiệp là nói tới nhóm các nhà sử học, những người làm công tác nghiên cứu lịch sử. Khoa học lịch sử cũng như các khoa học khác, luôn đặt ra những tiêu chí riêng, đặc trưng của nghề nghiệp. Tiêu chí của sử học là: Sự trung thực, sự tường minh, thông tin lịch sử chính xác... Tác phẩm sử học thiếu những tiêu chí trên sẽ chịu sự đào thải của nhóm.
Giá trị cá nhân: Mỗi người từ sự hiểu biết riêng của mình và từ tâm lí cá nhân mà có những đánh giá riêng, sở thích riêng, mô hình riêng... Tuy nhiên dù giá trị cá nhân hay tâm lí cá nhân có khác nhau nhưng trong thực tế luôn có những tiêu chí chung không thể không thừa nhận, những sự thật hiển nhiên không thể đổi khác. Những tiêu chí này là sự kiểm định lí trí của con người.
Ba loại giá trị trên đây hợp thành một hệ thống giá trị trong mỗi con người, từ hệ thống này mà con người xem xét mọi hiện tượng xã hội và đối với nhà sử học là nhận thức lịch sử. Nhà sử học trình bày kết quả nhận thức của mình thông qua các mệnh đề lịch sử, mệnh đề đánh giá, mệnh đề khái quát. Nội dung của các mệnh đề này hàm chứa thái độ của nhà sử học đối với hệ thống giá trị. Đây là một trong những cơ sở để kiểm tra khả năng nhận thức khách quan của nhà sử học.
Tóm lại, nhận thức lịch sử sẽ đạt được sự khách quan khi nhà sử học tích hợp được đầy đủ những yếu tố chủ quan và khách quan qui định quá trình khôi phục lịch sử và đánh giá lịch sử. Tuy nhiên vì sự khách quan nằm trong nhận thức chủ quan của người nghiên cứu nên khả năng đạt tới chân lí trong sử học luôn là tiệm cận.
Nguồn
VỀ MỘT NGUỒN TÀI LIỆU MỚI CỦA SỬ HỌC - TÀI LIỆU INTERNET
0 nhận xét Người đăng: Unknown vào lúc 04:08
PGS. TS. Nguyễn Cảnh Huệ
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
Khoa học Lịch sử ra đời cách đây hàng ngàn năm và ngày càng phát triển nhờ sự không ngừng bổ sung, hoàn thiện của phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn sử liệu. Trong khoảng trên dưới 15 năm trở lại đây, nhờ sự phát triển của khoa học - công nghệ, một nguồn tài liệu mới của Sử học cũng xuất hiện ở nước ta, đóng góp vào sự phát triển của Sử học - đó là nguồn tài liệu internet.
Internet là một hệ thống thông tin toàn cầu có thể được truy nhập công cộng gồm các mạng máy tính được liên kết với nhau. Hệ thống này truyền thông tin theo kiểu nối chuyển gói dữ liệu (packet switching) dựa trên một giao thức liên mạng đã được chuẩn hóa. Hệ thống này bao gồm hàng ngàn mạng máy tính nhỏ hơn của các doanh nghiệp, của các viện nghiên cứu và các trường đại học, của người dùng cá nhân, và các chính phủ trên toàn cầu (http://vi.wikipedia.org/wiki).
Như vậy, khái niệm internet có nội dung rất rộng, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến những tài liệu liên quan đến Lịch sử được công bố trên mạng internet.
Có thể nói, đây là một nguồn tài liệu rất phong phú, đa dạng của Sử học; nhưng, việc sử dụng nó để nghiên cứu Lịch sử một cách hiệu quả không phải là đơn giản. Với bài viết này, chúng tôi xin được nêu lên những suy nghĩ bước đầu của mình về nguồn tài liệu internet với tư cách là một nguồn tài liệu của Sử học trên các khía cạnh: Ưu điểm, hạn chế của nó và những yêu cầu để sử dụng một cách hiệu quả nguồn tài liệu này phục vụ cho việc nghiên cứu Lịch sử; sau cùng là một vài nhận xét.
1. Ưu điểm
1.1. Nguồn tài liệu internet có thể góp phần giúp người đọc hiểu một cách toàn diện, đa chiều, sâu sắc vấn đề mình nghiên cứu
Nguồn tài liệu cho Sử học trên internet là một nguồn tài liệu rất rộng, rất phong phú với nhiều kênh, nhiều phía, nhiều quan điểm, chính kiến… khác nhau; trong đó, có những phía, những quan điểm đối lập nhau, những ý kiến trái với sự thật. Ưu điểm của nguồn tài liệu như vậy là giúp người đọc hiểu một cách toàn diện, đa chiều, sâu sắc vấn đề mình nghiên cứu, tránh được lối nhận thức một chiều, đơn giản.
1.2. Có thể truy cập tài liệu bất cứ khi nào, ở đâu
Đặc điểm và cũng là ưu điểm của việc khai thác nguồn tài liệu này mà ở các nguồn tài liệu khác không có được là chúng ta có thể truy cập, khai thác tài liệu bất cứ khi nào, ở đâu nếu chúng ta có những phương tiện cần thiết như: máy tính, nối mạng internet. Với những phương tiện đó, chúng ta có thể truy cập tài liệu lúc nào chúng ta muốn và bất cứ ở đâu: tại phòng ngủ, khách sạn, nhà ga… Đây là một trong những lợi thế, ưu điểm mà khó có thể tìm thấy ở bất cứ nguồn tài liệu nào.
1.3. Có thể thu thập tài liệu một cách nhanh chóng, không mất nhiều thời gian, công sức và tiết kiệm
Chỉ cần biết địa chỉ tài liệu, ngồi trong phòng làm việc, với vài thao tác đơn giản, chúng ta có thể lấy được tài liệu mình cần mà không phải đi đến thư viện, làm các thủ tục mượn tài liệu, ghi chép tài liệu đối với tài liệu viết hay đi xuống thực địa để quan sát, mô tả đối với tư liệu điền dã, thực tế… Đây cũng là một ưu điểm nổi bật nữa của nguồn tài liệu internet so với các nguồn tài liệu khác.
Ngoài ưu điểm là đỡ tốn thời gian, công sức; sử dụng nguồn tài liệu này, nhà nghiên cứu còn tiết kiệm được cả giấy, mực nữa. Đặc điểm của việc sử dụng nguồn tài liệu này là chúng ta lấy tài liệu từ “trên trời” và dán vào “giấy cũng ở trên trời”, không cần đến giấy, mực thông thường như khi sử dụng các nguồn tài liệu khác.
1.4. Tài liệu mang tính cập nhật rất cao
Tài liệu trên internet luôn luôn cập nhật - thông tin có thể thay đổi đến từng giờ, từng phút; vì thế, khai thác nguồn tài liệu này cho Sử học, chúng ta sẽ có một nguồn tài liệu cập nhật về vấn đề mình quan tâm. Với ưu thế này, nhà nghiên cứu sẽ rất thuận lợi khi nghiên cứu những vấn đề, sự kiện đang diễn ra ở trong nước hay trên thế giới.
Đó là một số ưu điểm chính theo nhận thức của chúng tôi đối với nguồn tài liệu mới mẻ này.
2. Hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm nổi bật trên, nguồn tài liệu này cũng có những hạn chế của mình. Theo chúng tôi, nó có những hạn chế chính sau:
2.1. Người đọc dễ bị mất phương hướng trong quá trình khai thác tài liệu
Trên internet, với nhiều quan điểm khác nhau, đúng có, sai có, thậm chí có tài liệu bị xuyên tạc làm cho người đọc, trong đó có những nhà nghiên cứu trẻ với kiến thức còn có hạn, kinh nghiệm nghiên cứu còn ít, dễ bị mất phương hướng, không biết đâu là đúng, đâu là sai, không chọn được những tài liệu tin cậy để sử dụng cho việc nghiên cứu. Nếu sử dụng nguồn tài liệu sai sẽ có hại cho khoa học, thậm chí có khi có hại cho cách mạng, cho Tổ quốc.
2.2. Tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh “sao chép” phát triển
Bệnh “sao chép” - một căn bệnh nhức nhối và khó chữa trong nghiên cứu khoa học nói chung và trong Sử học nói riêng đã tồn tại trong nhiều năm nay và dường như nó được tiếp thêm sức mạnh để phát triển từ khi có internet. Chúng tôi nói như vậy vì những lí do sau:
Thứ nhất, chỉ cần một vài lần nhấc “con chuột” với những thao tác đơn giản vào “tài liệu”, người ta đã có thể tăng thêm vào công trình nghiên cứu của mình (tiểu luận, luận văn…) hàng trang, việc mà đánh máy có khi mất tới hàng giờ, thậm chí hàng buổi. Đây là điều mà rất nhiều sinh viên hay những nhà nghiên cứu trẻ đã lựa chọn và lạm dụng khi làm tiểu luận, luận văn, viết báo cáo khoa học.
Thứ hai: Trong nhiều năm nay, chúng tôi tiếp xúc với rất nhiều tiểu luận, luận văn của sinh viên mà những công trình khoa học đó mắc bệnh “sao chép” từ internet rất nặng. Trong nhiều luận văn, tiểu luận của sinh viên, liên tục trong nhiều trang là tập hợp các đoạn cắt từ tin internet, dẫn tới bệnh “chất đống tài liệu” - làm cho người đọc bị ngập trong đống tài liệu mà không thấy được sợi dây logic. Sẽ không chủ quan khi cho rằng, “sao chép” là căn bệnh khá phổ biến hiện nay trong giới sinh viên, không riêng một ngành nào, trường nào.
Căn bệnh này ngày càng phát triển sẽ làm thui chột khả năng tư duy sáng tạo của con người, làm cho khoa học không thể phát triển được.
2.3. Khó xác định được nguồn gốc của tài liệu
Tài liệu trên internet, có khi do tác giả đưa lên, có khi do người khác đưa lên cho nên ở một số tài liệu, chúng ta thật khó xác định nguồn gốc của nó, mà trong nghiên cứu Lịch sử, việc làm rõ nguồn gốc của tài liệu là điều bắt buộc.
3. Những yêu cầu để sử dụng một cách hiệu quả nguồn tài liệu này
Trước những ưu điểm và hạn chế trên của nguồn tài liệu internet (chắc chắn là chúng tôi nêu chưa đủ), để sử dụng một cách hiệu quả nguồn tài liệu này cho việc nghiên cứu Lịch sử, theo chúng tôi, chúng ta cần:
3.1. Người sử dụng nguồn tài liệu này cần có trình độ tương đối cao về kiến thức và nắm vững phương pháp luận Sử học.
Như đã nói ở trên, do nguồn tài liệu này rất phong phú với nhiều kênh, nhiều phía, nhiều quan điểm… khác nhau, trong đó có những phía, những quan điểm đối lập nhau, những ý kiến trái với sự thật. Vì vậy, để sử dụng được nó, đòi hỏi người sử dụng phải đạt tới trình độ tương đối cao về kiến thức, trước hết là kiến thức lĩnh vực mình nghiên cứu - một trình độ đủ để giúp họ phân biệt được đâu là tài liệu đúng, sai, sự thật hay xuyên tạc, để không bị tài liệu đánh lừa; đồng thời nắm vững phương pháp luận Sử học mới có thể phân tích, đánh giá tài liệu và sử dụng được những tài liệu chính xác.
3.2. Cơ sở để xác định độ tin cậy, chính xác của tài liệu là sự thực lịch sử
Đối với Sử học, tiêu chuẩn để xác định độ tin cậy của tài liệu là tài liệu đó phải phù hợp với sự thực lịch sử, với chân lý khách quan.
Để có được nguồn tài liệu chính xác, tin cậy, đối với nhiều tài liệu trên internet, chúng ta cần phải phân tích, đánh giá tài liệu - đánh giá bên ngoài, đánh giá bên trong, xem tài liệu đó do ai viết, có khách quan không, có bị xuyên tạc để phục vụ cho ý đồ của họ không… Đây là điều cần làm khi sử dụng nguồn tài liệu internet - một nguồn tài liệu rất phức tạp mà chúng tôi đã đề cập ở trên.
3.3. Cần phải kết hợp tài liệu internet với các nguồn tài liệu khác trong nghiên cứu Lịch sử
Trong nghiên cứu Lịch sử, kết quả nghiên cứu càng có giá trị khi sử dụng được tài liệu tin cậy và phong phú (một công trình Sử học được coi là sử dụng tài liệu phong phú được hiểu là nó sử dụng tài liệu từ nhiều nguồn). Tài liệu càng phong phú, kết luận khoa học càng có tính khách quan cao. Một công trình Sử học khó có những kết luận, nhận định khách quan khi chỉ sử dụng một nguồn tài liệu. Đối với nguồn tài liệu internet, với tính phức tạp như đã nói, chúng ta lại càng không thể chỉ dựa vào một mình nó để nghiên cứu và đưa ra những kết luận. Sẽ là sai lầm về mặt phương pháp luận nếu như nhà nghiên cứu Lịch sử nào đó chỉ dựa vào nguồn tài liệu internet để nghiên cứu. Nguồn tài liệu này cần phải được kết hợp và so sánh với các nguồn tài liệu khác trong nghiên cứu Lịch sử. Có như vậy, chúng ta mới sử dụng một cách hiệu quả nguồn tài liệu internet trong nghiên cứu Lịch sử.
4. Một vài nhận xét
Từ những trình bày ở trên, chúng tôi đi đến một số nhận xét bước đầu như sau:
4.1.Tài liệu internet là nguồn tài liệu phức tạp và mang tính tổng hợp với việc bao gồm nhiều kênh, nhiều phía, nhiều quan điểm, chính kiến khác nhau; bao gồm nhiều hình thức in ấn như sách, báo, tạp chí...; nhiều cấp độ: tài liệu bậc 1, 2, 3… Đối với nước ta, càng đẩy mạnh quá trình hội nhập thế giới thì nguồn tài liệu này càng được mở rộng, càng phong phú, đa dạng, phức tạp.
4.2. Là nguồn Sử liệu mới nhất trong gia đình các nguồn Sử liệu
Trong “đại gia đình” nguồn Sử liệu như: tài liệu di tích, hiện vật, truyền miệng - dân gian, chữ viết, internet... thì tài liệu internet là trẻ nhất và như đã nói là tuổi đời của nó mới trên dưới 15 năm đối với ở nước ta, quả thật là quá trẻ so với những nguồn tài liệu khác có hàng chục ngàn năm tuổi như tài liệu di tích, tài liệu hiện vật, tài liệu dân gian... Vì mới xuất hiện nên nguồn tài liệu này theo chúng tôi là đang vận động và chưa thực sự định hình một cách rõ ràng, hoàn chỉnh như những nguồn sử liệu khác.
4.3.Sự xuất hiện nguồn tài liệu này tạo thêm nhiều cơ hội cho Sử học phát trển nhờ những ưu điểm của nó nhưng cũng đặt ra cho giới Sử học những khó khăn, thách thức mới do những hạn chế của nó (mà chúng tôi đã nêu ở trên). Những khó khăn, thách thức đó càng lớn đối với những nhà nghiên cứu trẻ.
4.4. Vì vậy, để khắc phục những hạn chế và phát huy những ưu điểm của nguồn tài liệu này, chúng tôi cho rằng, Nhà sử học cần có một trình độ văn hóa, khoa học nhất định và nắm vững phương pháp luận Sử học. Đối với giới sử học mác-xít Việt Nam, chúng ta cần nắm vững chủ nghĩa Mác-Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, tức là nắm vững chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đứng trên lập trường tích cực, tiến bộ và chống lại quan điểm phản động, sai trái. Có như vậy, chúng ta mới sử dụng một cách hiệu quả nguồn tài liệu internet, không bị lệch lạc, mất phương hướng trong quá trình nghiên cứu, hoàn thành tốt nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, vừa phục vụ sự nghiệp cách mạng của dân tộc, vừa thúc đẩy Sử học phát triển thêm một bước. Đồng thời, có như vậy, chúng ta mới có cơ sở đập lại những thông tin sai trái, xuyên tạc lịch sử trên internet, bảo vệ quyền lợi chính đáng của cách mạng, của dân tộc.
*
Như vậy, nguồn tài liệu internet trong nghiên cứu Lịch sử có tính hai mặt: vừa có những ưu điểm, vừa có những hạn chế. Trách nhiệm của những Nhà sử học chân chính, trong đó có giới sử học mác-xít Việt Nam là khai thác tối đa những ưu điểm và tránh được tối đa những hạn chế, cố gắng gạn lọc từ trong “rừng tài liệu internet” để có những tài liệu tin cậy, phục vụ cho việc nghiên cứu Lịch sử, thúc đẩy một bước sự phát triển của Sử học.
Là bài viết đầu tiên về một vấn đề còn mới mẻ - tài liệu internet - và có thể nói vấn đề đang vận động để định hình; mặt khác, do nhận thức của bản thân còn có hạn, bài viết khó tránh khỏi những hạn chế, rất mong các nhà khoa học góp ý để chúng tôi có dịp nâng cao hơn nữa chất lượng bài viết của mình.
Nguồn
ThS. Đinh Thị Thùy Hiên
Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQG Hà Nội
1. Sử liệu viết - một loại nguồn truyền thống
Sử liệu chữ viết không phải loại nguồn xuất hiện sớm nhất. Trong nghiên cứu về lịch sử loài người trước khi có nguồn văn tự thì dấu vết vật chất và thông điệp bằng lời đã là những nguồn không thể thay thế được. Mặc dù vậy, sử liệu viết có một vị trí tương đối đặc biệt. Chúng không chỉ được tính đến với tư cách một loại nguồn riêng biệt[1], mà nhiều nhà phương pháp luận còn xem đây là nguồn chính xác nhất, quan trọng nhất. Martha Howell và Walter Frevenier trong cuốn From Reliable Sources: An Introduction to Historical Methods [Từ những nguồn đáng tin cậy: Nhập môn các phương pháp sử học] đã nhận thấy thực tế các nhà lý thuyết thường tập trung vào nguồn chữ viết và cũng đồng quan điểm coi nguồn văn tự là “bà hoàng” của các nguồn: “…Đây là những dạng câu hỏi được các nhà sử học thế kỷ XX tập trung tới, và những học giả này đã phát triển những công cụ tinh vi để viết về các nguồn. Tất cả họ tập trung vào bản thân nguồn, chủ yếu là nguồn chữ viết, văn bản, và đặc biệt là những nguồn được coi là bà hoàng của các nguồn, những điều lệ hay văn bản”[2]. Nguyễn Thế Anh, chẳng hạn, tuy thừa nhận việc nghiên cứu lịch sử dựa trên nhiều loại nguồn, song cho rằng tài liệu viết mới là quan trọng nhất và đáng tin cậy nhất đối với nhà sử học: “…nếu sử được viết với nhiều loại tài liệu khác nhau, nó được viết nhiều nhất với những bản văn còn được giữ lại, những tài liệu bút ký; các loại tài liệu bút ký là loại tài liệu chính xác nhất. Khác với nhà nhân chủng học chú trọng đến các đoàn thể xã hội chưa có chữ viết và nhà khảo cổ học mà tài liệu là đồ nghề và đồ dùng để lại bởi kỹ xảo của con người trong quá khứ, sử gia chú trọng nhiều nhất đến các bằng cứ chứa đựng trong các tài liệu bút ký”[3]. Việc các khoa học bổ trợ cho sử học đều liên quan đến nghiên cứu chữ viết[4] cũng hé mở phần nào về tầm quan trọng đặc biệt của loại nguồn này đối với các nhà phương pháp luận.
Sức hấp dẫn nhà sử học của nguồn chữ viết cũng như vị trí của chúng trong nghiên cứu lịch sử trước hết xuất phát từ chính đặc trưng riêng của loại nguồn này. “Chữ viết là một điều kỳ diệu về mặt công nghệ. Nó làm cho lời nói trở nên vĩnh cửu trong khi không làm mất đi bất kỳ điều gì trong tính chính xác của nó, mặc dù trạng thái giao tiếp riêng tư trực tiếp mất đi. Vì vậy, nơi chữ viết được dùng rộng rãi, người ta trông đợi các nguồn thông tin rất cụ thể và rất đa dạng, điều cũng cho phép thực hiện một sự tái dựng rất chi tiết về quá khứ”[5]. Nguồn chữ viết, ở mức độ nhất định, có thể không có khả năng cung hiến cho nhà nghiên cứu những thông tin trực quan, sinh động về quá khứ thông qua hiện diện của mình nhiều như nguồn hiện vật. Song, vì là những “hiện vật câm”, sử liệu vật thực không phải lúc nào cũng có thể tự nói lên được bản thân chúng là gì? đã đóng vai trò như thế nào trong đời sống quá khứ? Vì vậy, nhà nghiên cứu có thể đưa ra diễn giải sai trầm trọng như trường hợp các nhà khảo cổ học ở Tripolitania từng xác định cấu trúc từ thời La Mã cổ đại là “những dấu tích của điện thờ tiền sử nào đó” trước khi các học giả về sau đi đến một sự diễn giải đáng tin cậy và kiên định hơn rằng chúng là những máy ép dầu[6]. Truyền thống truyền miệng, mặc dù thường chứa đựng những thông tin sinh động, chi tiết, song việc thêm thắt, cải biên trong quá trình khẩu truyền qua nhiều thế hệ cũng như sự thiếu vắng của một niên biểu chính xác khiến việc khai thác những thông tin ấy lại khó khăn hơn nhiều. Trong khi tài liệu viết vẫn có thể bị biến đổi qua quá trình sao chép, về cơ bản nó vẫn có tính ổn định[7], vì thế việc lần tìm lai lịch và khôi phục nguyên bản của nguồn chữ viết thường dễ dàng hơn.
Yếu tố nhận thức chủ quan của tác giả thường được xem là hạn chế của sử liệu chữ viết, tuy nhiên, thực ra thì tất cả các nguồn sử liệu đều mang tính chủ quan. Điểm khác biệt là ở chỗ nguồn vật thực chỉ mang tính chủ quan bởi sự diễn giải của người sử dụng chúng làm sử liệu; trong khi ở nguồn truyền miệng và nguồn chữ viết, tính chủ quan đến từ sự diễn giải kép của người gửi và nhận thông điệp[8]. Thông thường, người ta có xu hướng cho rằng nguồn chỉ đi qua một sự diễn giải đơn thì tốt hơn thông điệp phải trải qua ít nhất hai sự diễn giải, “nhưng thực tế có một sự bảo vệ, làm cho các nguồn rõ ràng là chủ quan hơn (các thông điệp) lại thường khách quan hơn những nguồn rõ ràng là kém chủ quan hơn (bằng chứng trực tiếp). Sự diễn giải thứ nhất giới hạn phạm vi cho sự diễn giải thứ hai, trong khi không có gì giới hạn sự diễn giải bằng chứng trực tiếp”[9]. Cũng từ đặc điểm này mà nguồn chữ viết còn có khả năng cung cấp cho nhà nghiên cứu tư tưởng và hành động của con người, nhất là cung cấp trực tiếp nội dung tư tưởng mà tác giả của tài liệu đó muốn truyền đạt.
Sự dồi dào của nguồn chữ viết cũng góp phần lý giải việc chúng được ưa chuộng. Ban đầu, với phương thức chép tay, thì ngoài bản gốc người ta còn có thể tiếp cận với nhiều bản sao. Từ thế kỷ XV trở đi, nguồn tài liệu này trở nên dồi dào hơn hẳn so với các nguồn khác nhờ sự phát triển của ngành in. Khoa học kỹ thuật phát triển, đặc biệt là công nghệ thông tin hiện đại gần đây lại đem đến cho tài liệu chữ viết thêm cơ hội được lưu giữ và truyền bá rộng rãi với việc số hoá tài liệu. Hoạt động lưu trữ và đặc thù lưu giữ tài liệu viết là chủ yếu của nó cũng mở rộng cơ hội để các nhà nghiên cứu tiếp cận nguồn chữ viết.
Hơn nữa, thực tế hoạt động nghiên cứu lịch sử cũng tác động đến việc nhà sử học thường coi đây là nguồn tài liệu chủ yếu của mình. Từ việc tìm chủ đề nghiên cứu đến trình bày kết quả nghiên cứu lịch sử đều gắn với chữ viết. Nhà sử học phải đọc tất cả những công trình đã công bố có liên quan, xem người đi trước đã nghiên cứu những vấn đề gì, giải quyết vấn đề đến đâu, vấn đề nào cần phải tiếp tục nghiên cứu… để lựa chọn cho mình một đề tài có ý nghĩa khoa học hoặc thực tiễn. Nhà sử học cũng chấp nhận phần nhiều những dẫn chứng mà các nhà nghiên cứu khác đưa ra, hoặc giải thích lại những tài liệu mà họ đưa ra. Có nghĩa là họ bị chi phối bởi việc các nhà nghiên cứu khác đã viết gì về nó. Kết quả, dù các bằng chứng được nhà nghiên cứu đi trước sử dụng là thành văn hay bất thành văn thì bản thân công trình của họ - cái mà nhà sử học đi sau sử dụng - là chữ viết. Với sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại, gần đây giới sử học đã không còn xa lạ với những công trình sử học được trình bày bằng hình ảnh, hoặc bằng lời… Mặc dù vậy, tác phẩm sử học viết vẫn thống trị trong nền sử học thế giới đương đại.
Như thế không có nghĩa rằng chỉ nguồn chữ viết là đủ cho nhà sử học, hoặc đây là nguồn quan trọng nhất hay đáng tin cậy nhất. Ở những nơi mà nguồn chữ viết không tồn tại, các nguồn sản sinh trên cơ sở khoa học kỹ thuật chưa xuất hiện, thì nguồn vật thực và truyền miệng là những nguồn đảm trách gánh nặng của việc tái tạo lịch sử. Ngay cả khi nguồn chữ viết dồi dào, thì các nguồn khác vẫn có vai trò không thể thiếu trong hoạt động nghiên cứu lịch sử: “Nguồn chữ viết này, dù rõ ràng là rất cần thiết đối với hầu hết các công trình của các nhà sử học, và dù đôi khi được coi là nguồn duy nhất của các dữ liệu lịch sử, tuyệt nhiên không phải là nguồn sử liệu duy nhất. Nguồn không thành văn, kể cả hiện vật và truyền miệng, đều là những bộ phận quan trọng đối với nhà sử học”[10]. Mặc dù vậy, có thể khẳng định rằng sử liệu chữ viết là một loại nguồn truyền thống cả về mặt phương pháp luận và thực tiễn đối với nhà sử học.
2. Về vấn đề phê phán sử liệu
Nguồn sử liệu không phải là một cuốn sách đang mở trước mặt và cung cấp cho nhà sử học những câu trả lời ngay lập tức. Chúng có thể là cái mà chúng tỏ ra, lại cũng có thể rất khác so với thoạt nhìn. Chính vì thế, để khai thác được thông tin từ sử liệu thì việc giám định nguồn là yêu cầu bắt buộc đối với tất cả các loại nguồn, và cho đến nay việc xoay sở với các tài liệu vẫn được xem là một trong những điểm phân biệt chuyên gia sử học với người nghiên cứu sử nghiệp dư[11]. Các nhà phương pháp luận gọi công việc giám định này là phê phán sử liệu, và phân thành 2 bước đánh giá tính xác thực [authenticity] của nguồn và đánh giá độ tin cậy [reliability] của thông tin từ sử liệu. Tên gọi cũng như nội dung của 2 khâu đoạn kể trên, mặc dù vậy, lại được hiểu khác nhau giữa các nhà phương pháp luận. Bước một thường được gọi là phê phán bên ngoài hay phê phán uyên bác, phê phán cấp thấp, phê khảo hình thức hay phê phán phân tích; bước hai đánh giá độ tin cậy, hay phê phán bên trong, phê khảo nội dung, phê phán cấp cao, khoa học giải thích, phê phán tổng hợp. Dù có phát biểu rõ ràng hay không thì các nhà lý luận đều gặp nhau ở nguyên tắc chung cho phê phán sử liệu là dựa vào chính bản thân sử liệu (bao gồm cả hình thức lẫn nội dung sử liệu) và dựa vào những tư liệu khác. Cả tri thức nguồn lẫn tri thức ngoài nguồn cùng được huy động vào quá trình đánh giá thông tin và kênh thông tin này. Ở đây, chúng tôi sử dụng các khái niệm đánh giá tính xác thực và đánh giá độ tin cậy.
Sự đa dạng của các nguồn sử liệu đòi hỏi nhà phương pháp luận phải đi xa hơn nữa để đưa ra những phương pháp giám định sử liệu đặc thù. Đối với nguồn sử liệu chữ viết, dù trên chất liệu giấy, gỗ, đá, đồng, hay tre trúc…, thì các phương pháp văn bản học có vai trò rất quan trọng: “Đối với sử liệu viết, ở bước thứ nhất, tức bước phê phán bên ngoài hay phê phán kênh, có thể nói là nhà sử liệu học đã sử dụng những công cụ của văn bản học, hay nói cách khác, đã đem phương pháp văn bản học làm phương pháp của mình. Ở giai đoạn phê phán bên trong hay phê phán thông tin, nhà sử học ít sử dụng các phương pháp văn bản học hơn. Nói ít không có nghĩa là hoàn toàn không, vì cả hai giai đoạn phê phán sử liệu này không có ranh giới rõ rệt trong thực tế mà luôn gắn với nhau”[12]. Tuy vậy, ngay cả với phê phán bên ngoài thì các kỹ thuật của văn bản học vẫn chưa đủ. Nhà nghiên cứu còn phải sử dụng công cụ của các nhà khảo cổ học [archeology], minh văn học [epigraphy], cổ tự học [paleography], văn thư học [diplomatic], lịch pháp học, địa danh học [toponymy], nhân danh học, ấn chương học [sigillography], cổ tiền học [numismatology]... Tuy không thể ôm đồm tất cả các kiến thức này mà chỉ có thể có vài quan niệm cơ bản về những ngành học này, song điều đó sẽ giúp nhà nghiên cứu biết kết hợp kết quả của các ngành khoa học này, phục vụ cho việc khảo cứu tài liệu để thực hiện công việc nghiên cứu lịch sử của mình.
Đánh giá tính xác thực
Mục đích của phê phán sử liệu là đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi những thông tin do nguồn cung cấp có phù hợp với thực tế hay không, hay còn gọi là đánh giá độ tin cậy của thông tin từ sử liệu. Để tiến hành được việc đó, trước hết nhà nghiên cứu phải trả nó về với nguồn gốc xuất xứ đúng của nó, hay còn gọi là nghiên cứu tính xác thực của nguồn. John Tosh trong cuốn The Pursuit of History: Aims, Methods and new Directions in the Study of Modern History cũng cho rằng: “Trước khi nhà sử học có thể đánh giá chính xác ý nghĩa của một văn bản, họ cần phải tìm ra được khi nào, tại sao và bằng cách nào nó lại xuất hiện[13]”.
Tính xác thực, như đã nhắc đến ở trên, lại có nhiều quan niệm khác nhau. J Topolski phân biệt 4 khái niệm về tính xác thực. Xác thực 1: tri thức về thời gian hình thành và địa điểm xuất phát về nguồn. Xác thực 2: được tương đối hóa theo tính chất của thông tin mà chúng ta tìm trong nguồn (với vấn đề này thì là xác thực, vấn đề khác là không xác thực). Xác thực 3: vấn đề giả mạo. Xác thực 4: tính nguyên thủy của nguồn[14]. Phạm Xuân Hằng cho rằng cần phê phán các yếu tố cấu thành của sử liệu liên quan đến các vấn đề: sử liệu ra đời trong hoàn cảnh cụ thể nào, hoàn cảnh đó đã ảnh hưởng, chi phối đến nội dung sử liệu ra sao, khả năng phản ánh hiện thực của tác giả; vấn đề mức độ phù hợp với các thông tin từ sử liệu với thực tế. Nói cách khác là phê phán vật mang tin, thời gian, địa điểm hình thành tài liệu, tác giả và bản văn của sử liệu[15]. Phần lớn các nhà phương pháp luận ngày nay thì cho rằng, xác định tính xác thực của sử liệu là xác định các yếu tố tác giả, thời gian, địa điểm hình thành sử liệu, xác định bản thật bản giả, xác định bản gốc bản sao.
Với mục đích trả sử liệu về với chính nó, dù văn bản có ghi tác giả, địa điểm và thời gian hình thành hay không thì việc xác minh vẫn là thủ tục không thể bỏ qua. Tất nhiên, việc này không phải lúc nào cũng dễ dàng hay kết quả đem lại bao giờ cũng làm hài lòng nhà nghiên cứu.
Về việc xác định yếu tố tác giả sử liệu, có ý kiến cho rằng nhìn chung đó là “vấn đề riêng, vượt ra ngoài vấn đề tính xác thực của các nguồn”[16] hoặc không chỉ phải tìm ra họ là ai, mà quan trọng hơn phải đánh giá được họ là người như thế nào: “Ở đây vấn đề được đặt ra là trong hai yếu tố: xác định họ, tên người thông tin và người thông tin ấy là người như thế nào, thì yếu tố nào là quan trọng hơn? Về vấn đề này, các nhà phương pháp luận đã chỉ ra rằng: tìm ra được một cái tên riêng thực ra chưa có nội dung gì cả, mà vấn đề là phải hiểu và đánh giá được tác giả ấy là con người như thế nào? Giải quyết được vấn đề này thì việc xác định tác giả sử liệu mới có ý nghĩa khoa học”[17]. Điều này xuất phát từ mối quan hệ hữu giữa hai khâu phê phán bên trong (đánh giá thông tin) và phê phán bên ngoài (đánh giá kênh thông tin). Đánh giá độ tin cậy của thông tin có nghĩa là đánh giá người thông tin - tác giả sử liệu[18]. Tuy nhiên, chúng tôi quan niệm rằng với nhiệm vụ của phê phán bên ngoài là xác định tính xác thực của tài liệu thì về mặt nguyên tắc chỉ cần xác định tác giả là ai là đủ. Tác giả văn bản là người như thế nào thực sự là vấn đề bản chất mà nhà sử học phải giải quyết khi đánh giá độ tin cậy của thông tin ở công đoạn kế tiếp.
Xác định niên đại thường được xem là quan trọng nhất trong khâu phê phán bên ngoài, bởi vì trên cơ sở các thông tin từ sử liệu, nhà sử học sẽ tái dựng nên sự kiện lịch sử từng diễn ra trong một không gian và thời gian cụ thể. Nếu không biết được mối liên hệ của một văn bản với sự kiện lịch sử đang nghiên cứu, tài liệu đó sẽ trở nên vô giá trị.
Trong trường hợp đã biết tác giả văn bản, có thể dựa vào hành trạng cá nhân hoặc lịch sử hoạt động của cơ quan để lần tìm về thời điểm sáng tác. Kiểu chữ, văn phong, ngôn từ, chữ huý cũng là căn cứ giúp xác định niên đại nhờ tính thời đại của ngôn ngữ. Theo John Tosh, nhà sử học làm việc với tài liệu viết tay cần phải có chút gì đó giống nhà cổ tự học để xác định liệu chữ viết đó có đúng với địa điểm và thời gian đó không, lại giống với nhà ngữ văn học đánh giá phong cách và ngôn ngữ của một văn bản đáng nghi[19]. Điều này không chỉ đúng với văn bản viết tay mà có thể áp dụng cho mọi nguồn chữ viết. Đối với những văn bản hành chính, nhà sử học có thể trả lời cho câu hỏi về tính xác thực của niên đại tài liệu chỉ bằng cách so sánh văn bản cần nghiên cứu với những văn bản tương tự cùng hoặc khác thời kỳ về thể thức, kiểu chữ, thẩm quyền ban hành... Văn thư học có ý nghĩa đặc biệt trong việc xác định thời điểm ra đời của thể loại nguồn này. Những ngôn ngữ vay mượn hoặc trích dẫn từ một tài liệu khác cũng là cơ sở để xác định niên đại tương đối của tài liệu; tương tự, nếu văn bản có nhắc tới một sự kiện lịch sử đã biết, thì nó chắc chắn ra đời sau sự kiện đó.
Nghiên cứu phong cách trang trí của tài liệu minh văn (chữ viết trên đá, trên đồng) - thế mạnh của các nhà khảo cổ học lịch sử - sẽ cho biết câu trả lời về niên đại tài liệu. Nhà sử học cũng có thể dựa vào sự giúp đỡ của các chuyên gia kỹ thuật, chẳng hạn thử phản ứng hóa học của giấy, mực, để xác định tuổi của văn bản.
Để trả lời cho câu hỏi về địa điểm hình thành sử liệu, hành trạng của tác giả tài liệu hay lịch sử đơn vị có thể cung cấp những manh mối hữu ích. Địa danh học lịch sử và ngôn ngữ học, dân tộc học đặc biệt hữu ích trong khâu đoạn này bởi chúng có khả năng giúp xác định dấu ấn địa phương - chẳng hạn tên đất, tên sông, phong tục tập quán hay phương ngữ - để lại trong văn bản. Bản thân sự hiện diện vật chất của tài liệu cũng nói lên chúng thuộc về không gian nào khi chất liệu giấy, loại mực, kiểu in… được phân tích nhờ hình pháp học.
Ngay sau khi đã xác định được các yếu tố tác giả, niên đại, địa điểm hình thành văn bản, một câu hỏi được đặt ra tiếp theo: văn bản đó là nguyên gốc hay bản sao, bởi vì ta đang tìm cách trả sử liệu trở về là đúng nó, mà “Tam sao thất bản”: bản sao lại thường không thể hiện độ xác thực hoàn hảo của bản gốc[20]. Quá trình sao chép, dù là chép tay hay in ấn, photocopy,… đều có thể gây ra những lỗi mà các nhà phương pháp luận thường lưỡng phân thành sai lầm cố ý và sai lầm vô ý[21]. Những sai lầm càng tăng lên khi mỗi văn bản đó lại được sử dụng làm bản gốc cho văn bản khác.
Sau khi đã phát hiện các lỗi trong văn bản, nhà nghiên cứu phải tìm cách khôi phục lại văn bản gốc hoặc tìm ra văn bản gần nhất với bản gốc. Đối diện với những khác biệt giữa các bản hiện tồn, các nhà Trung cổ học đã phát triển phương pháp sai lầm chung, đặt bản sao vào mối quan hệ với các bản sao khác. Nếu hai bản sao của một văn bản chứa đựng những lỗi thông thường, chúng có thể được coi là đó được lấy từ một nguồn (hay sao lại những văn bản thế hệ trước). Với cách thức đó, nhà sử học có thể lập cây phả hệ phức tạp của các văn bản; thậm chí nhận diện được đặc điểm của những thế hệ đã mất trong cây phả hệ[22]. Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, người ta còn phát triển cách thức tìm mối quan hệ giữa các thế hệ văn bản bằng cách so sánh sự thay đổi kiểu dáng và cổ tự: “Việc so sánh chặt chẽ các văn bản, nhất là chữ viết và cách diễn đạt khác nhau cho phép nhà sử học thiết lập nên mối quan hệ giữa các bản còn lại và tái dựng một bản gần nhất với cách diễn đạt của bản gốc”[23].
Khi đã xác định được văn bản cổ nhất trong phổ hệ ở phạm vi có thể cùng những sai lầm trong đó, nhà sử học có nhiệm vụ khôi phục lại văn bản gốc tưởng tượng. Tuy nhiên, trong quá trình này, nhà sử học dễ rơi vào tình trạng hoàn thiện văn bản bằng cách biên tập lại, tìm cách làm cho ý nghĩa văn bản rõ ràng hơn. Khi đó, “…người biên tập phải căn cứ vào bất cứ sự chính xác nào có tính tương đối với văn bản (cái sau đó được gọi là sự sửa lỗi) hay một cuộc tranh luận tốt (được gọi là sự phỏng đoán). Sự thận trọng như vậy là cần thiết, không chỉ để tôn trọng nguồn gốc, mà còn lưu lại những lỗi của nó. Những lỗi: đánh vần sai, lỗi ngữ pháp, chuyển dịch, thậm chí cả những sự bỏ sót có thể thấy được, là những chứng cứ lịch sử có ý nghĩa, đôi khi về những chuyện chính trị mà cho biết sự hình thành văn bản riêng biệt và luôn luôn niên đại kỹ thuật có liên quan, những tập quán ngôn ngữ, về vị trí của bản thân từ được viết trong nền văn hoá đó. Điều quan trọng căn bản mà nhà biên tập sử học là tạo mọi sự can thiệp rõ rệt tới người đọc, thường thường bằng những phương tiện như chú thích và những lời mở đầu rút gọn. Và tất nhiên, nhà sử học đó phải giới thiệu văn bản với tất cả những thông tin mình có về lịch sử văn bản, mối quan hệ của văn bản với tất cả những gì đã được biết (hay là giả thuyết) văn bản gốc, những biên tập trước đó của văn bản, nơi sáng tác văn bản, và niên đại của văn bản,…[24]
Việc khôi phục văn bản gốc còn đặt ra trong trường hợp vì lý do nào đó mà văn bản bị khuyết thiếu. Khi đó, người ta có thể sử dụng những biện pháp kỹ thuật cũng như đối chiếu với các tài liệu khác cùng loại, hoặc nguồn khác có đề cập đến nó để tìm ra những chữ, đoạn bị mất.
Cũng như các nguồn khác, nhà nghiên cứu còn phải xác định tính thật giả của sử liệu bởi không có thông tin đáng tin cậy trong một tài liệu giả. Sử dụng tài liệu giả, dù là vì động cơ gì, cũng sẽ dẫn nhà sử học đến những nhận thức sai lầm[25].
Người ta thường phân chia tài liệu giả thành hai loại: giả toàn bộ và giả bộ phận. Thoạt tiên, nhiều người cho rằng việc xác định giả từng bộ phận mới khó, còn giả toàn bộ thì việc xác định lại dễ dàng hơn. Trái lại, trong thực tế việc xác định những sử liệu được làm giả toàn bộ mới là khó nhất. Nói cách khác, cái giả toàn bộ thường khó phát hiện hơn cái giả từng bộ phận[26].
Để xác định giả toàn bộ, việc nghiên cứu hình thức của tài liệu, từ chất liệu, đến thể thức, ngôn ngữ, kiểu chữ, văn phong, bút tích, loại mực, kiểu in… dựa trên phương pháp hình pháp học sẽ giúp xác định nó có đúng thuộc về thời đại đó, của tác giả đó, ở địa điểm đó hay không. Với văn bản giả bộ phận, việc tìm những yếu tố muộn hay yếu tố “thò” được dựa trên cơ sở tìm ra mâu thuẫn với đặc trưng thời đại, đặc điểm của tác giả, hoặc của địa phương hình thành sử liệu.
John Tosh cho rằng “…, sẽ là sai lầm khi gợi ý rằng các nhà sử học liên tục phát hiện ra những sự giả mạo hoặc họ kiểm tra về mặt phương pháp tính xác thực của mọi tài liệu mà họ gặp. Thủ tục này chắc chắn thích hợp với những nhánh nhất định của lịch sử trung cổ, nơi mà phần lớn có thể dựa vào một hợp đồng đơn lẻ được chứng minh không chắc chắn. Song đối với hầu hết các nhà sử học – và đặc biệt là nhà sử học hiện đại – có rất ít triển vọng cho một khám phá sáng giá. Thời đại của họ có nhiều khả năng để nghiên cứu kỹ một chuỗi mở rộng các bức thư hoặc bản ghi nhớ, để ghi chép những giao dịch nhàm chán hàng ngày, điều mà hiếm có ai quan tâm làm giả. Và trong trường hợp các ghi chép công dưới sự chăm chút của lưu trữ đích thực thì khả năng bị giả mạo là khá nhỏ”[27]. Nhận xét này không phải không có yếu tố hợp lý. Tuy nhiên, trong thực tế cuộc sống những động cơ thúc đẩy việc giả mạo giấy tờ thì thời nào cũng có, và nhà sử học đứng trước bất kỳ một tài liệu viết nào cũng phải đặt ra câu hỏi về tính xác thực và kiểm chứng tính xác thực của nó. Chỉ có điều không phải lúc nào nhà nghiên cứu cũng có được câu trả lời cụ thể, chính xác cho vấn đề này.
Đánh giá độ tin cậy
Giám định tính xác thực của văn bản mới chỉ là bước đầu trong việc đánh giá sử liệu. Nhà nghiên cứu còn phải xác định độ tin cậy của thông tin từ sử liệu ở bước thứ hai của phê phán sử liệu. Nội dung của khâu đoạn này cũng khác biệt tùy quan điểm của nhà sử học.
Sự khác biệt đó, theo chúng tôi chủ yếu là xuất phát từ quan niệm về vấn đề đọc (hay giải mã, phá mã, diễn giải) nội dung sử liệu nói chung của các bên. Tựu chung lại, có hai xu hướng chính, một bên tách việc đọc sử liệu ra khỏi khâu phê phán, trong khi nhóm khác xem đó chính là một nội dung của phê phán bên trong. Có thể thấy J. Topolski là một ví dụ cho xu hướng thứ nhất, khi ông cho rằng: “Nghiên cứu những đặc tính bên ngoài của nguồn (tức là tất cả trừ nội dung những thông tin do các nguồn truyền đạt) cũng như xác định một cách tổng quát sự phê phán bên ngoài - những công việc này có thể xem xét theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Trong trường hợp nghiên cứu một cách rộng rãi công việc này, thì nói đến sự phê phán bên ngoài, cần phải kể cả việc đọc (phá mã) những thông tin chứa đựng trong nguồn, cũng như nghiên cứu bản thân nguồn – theo quan niệm của lý thuyết thông tin, nguồn là kênh thông tin. Theo cách hiểu hẹp hơn thì phê phán bên ngoài chỉ nhằm vào các đặc tính được luật mã (ví dụ như khi xác định ngày tháng trên cơ sở một văn kiện hoặc xác định tác giả trên cơ sở phong cách viết văn). Trong trường hợp này, việc nghiên cứu luật mã lại nằm trong sự phê phán bên ngoài (theo nghĩa đúng đắn). Nhưng ở đây bên ngoài của nguồn được hiểu như là kênh thông tin (và đây là cách hiểu đúng), tức là tách thủ tục đọc thông tin ra khỏi sự phê phán này. Nhưng cũng có thể xảy ra trường hợp là để phân tích những đặc tính bên ngoài của nguồn, cần phải phân tích cho không nói đến việc đọc thông tin”[28]. Có ý kiến xem đọc sử liệu là một trong 4 khâu chủ yếu của quá trình xử lý sử liệu học: Xác định phạm vi của các nguồn sử liệu; Sưu tầm và lựa chọn sử liệu; Đọc sử liệu; và Phê phán sử liệu[29].
Trong khi đó, theo một số nhà phương pháp luận, trước khi tiến hành đánh giá độ tin cậy của sử liệu, cần phải diễn giải nội dung văn bản đó, tức là coi đọc sử liệu là một phần của phê phán bên trong. Nguyễn Thế Anh trên cơ sở tiếp thu lý thuyết sử học phương Tây từ những năm 70 của thế kỷ trước cho rằng: “sử gia đi vào việc lý giải và phân tích cùng giải đáp nghĩa của tài liệu, tức là giải đáp những vấn đề gây nên bởi ngôn ngữ sử dụng (ngôn ngữ biến chuyển trong thời gian và trong không gian), bởi chính nội dung của tài liệu (điều này càng hiển nhiên khi người viết có dụng tâm dấu ý nghĩa của các câu văn); sử gia cũng tìm hiểu về tính chất chính xác của tài liệu, và cuối cùng xác định các sự kiện đặc biệt chứa đựng trong tài liệu”[30]. John Tosh trong ấn bản tương đối gần đây cũng chủ trương cấp độ thứ nhất của phê phán bên trong là diễn giải nội dung của văn bản: “Cứ cho là tác giả, thời gian và địa điểm của tài liệu là như nó được cho là, chúng ta làm gì từ những từ ngữ ở trước mặt? Ở một cấp độ thì đây là câu hỏi về ý nghĩa. Điều này không chỉ đơn thuần liên quan đến việc dịch nghĩa từ một ngôn ngữ cổ hoặc một ngoại ngữ,… Nhà sử học đòi hỏi không chỉ phải thông thạo ngôn ngữ mà phải tinh thông bối cảnh lịch sử, điều sẽ cho biết các từ ngữ trong văn bản thực sự nói gì”[31].
Trên thực tế, việc đọc sử liệu diễn ra trong suốt quá trình làm việc với sử liệu, cũng như suốt quá trình nghiên cứu lịch sử. Nhà sử học phải đọc tất cả những công trình nghiên cứu có liên quan, xem người đi trước đã giải quyết được những vấn đề gì, giải quyết đến đâu, vấn đề gì còn tồn nghi… để xác định đề tài nghiên cứu của chính mình. Trên cơ sở phạm vi nguồn giới hạn bởi chủ đề, thời gian và không gian nghiên cứu, các tài liệu đến tay nhà sử học đều được đọc, từ đó họ sẽ lựa chọn nguồn phù hợp và loại bỏ những gì không hữu ích. Không thể phát hiện sử liệu mà lại không hề “đọc” chúng. Nội dung văn bản được đọc khi phê phán bên ngoài vì nội dung sử liệu là một cơ sở để xác định tính xác thực. Tuy nhiên, phải đến khâu phê phán bên trong, việc đọc mới được đặt ra một cách chính thức: phải hiểu được nội dung văn bản trước khi đánh giá xem nó có phản ánh đúng sự thật hay không. Chính vì thế chúng tôi tán đồng quan điểm của John Tosh. Trước khi đánh giá độ tin cậy của người thông tin, một nhiệm vụ rất quan trọng của việc xác định độ tin cậy của thông tin sử liệu chính là đọc sử liệu.
Đọc sử liệu cũng đồng nghĩa với việc giải mã văn bản dựa trên các luật mã tâm lý, luật mã dân tộc, luật mã thời đại và luật mã các ký hiệu, bởi mỗi thời đại, mỗi dân tộc,... có dấu ấn riêng của mình. Với sử liệu chữ viết, có hai cách giải thích văn bản là trực giải (giải thích từng hàng theo thứ tự trong tài liệu) và suy luận (giải thích theo các vấn đề chính, theo các trọng tâm của tài liệu)[32]. Mục đích của sự giải thích là để làm sáng tỏ tài liệu, trong đó đòi hỏi: (1) Định nghĩa chính xác các nhân danh, địa danh, các từ ngữ có tính cách kỹ thuật hay chỉ định những định chế…; (2) Làm sáng tỏ các biến cố lịch sử được ám chỉ đến trong tài liệu sẽ cho phép hiểu rõ bản văn; (3) Giải thích rõ thêm những dụng ngữ ngoài mặt có vẻ tầm thường và mập mờ thường được chứa đựng trong các trong các đạo luật, các bản hiến pháp, các bài diễn văn; (4) Phê bình (nếu cần) các lời nói của tác giả[33]. Ở quá trình này, việc nắm bắt được bối cảnh lịch sử đặc biệt có ý nghĩa giúp nhà sử học hiểu thấu đáo được nội dung văn bản.
Ở cấp độ cao hơn - vốn đạt được sự thống nhất giữa các nhà phương pháp luận - là xác định xem các thông tin trong văn bản đó đáng tin cậy đến đâu: “một khi nhà sử học đã chìm đắm trong các nguồn ở thời đại của chúng và nắm được các khuynh hướng mang tính đặc tính của cách diễn đạt và từ vựng kỹ thuật đúng, các vấn đề về ý nghĩa thường có xu hướng ít khiến họ lo lắng hơn. Nhưng nội dung của một tài liệu lại gợi ra một câu hỏi xa hơn, dứt khoát hơn nhiều: nó có đáng tin cậy không? Không một nguồn nào có thể được dùng để tái dựng lịch sử cho đến khi sự đánh giá nào đó về vị trí của nó với tư cách là bằng chứng lịch sử được thực hiện. Câu hỏi này vượt khỏi phạm vi của bất cứ kỹ thuật lệ thuộc nào, chẳng hạn như cổ tự học hoặc văn thư học. Trả lời nó đòi hỏi thay vì tri thức về bối cảnh lịch sử và một sự hiểu biết sâu sắc bản chất con người. Ở đây, nhà sử học dựa vào chính mình”[34]. Có thể nói, nếu như cấp độ trước nhằm mục đích nắm bắt nội dung văn bản, thì ở cấp độ này là để hiểu “sự thật”/sự kiện/biến cố được phản ánh trong sử liệu ấy.
Đánh giá độ tin cậy của sử liệu viết thực chất là đánh giá độ tin cậy của tác giả tài liệu. Nhà nghiên cứu phải đi vào hàng loạt các câu hỏi về chỗ đứng của người viết, rằng ông ta có mối liên hệ thế nào với sự kiện được ghi chép; về lập trường quan điểm, hệ giá trị; về năng lực... của tác giả. Nếu do người trong cuộc viết ra, chúng ta cần phải tìm hiểu: Liệu vị trí họ đứng có khả năng đưa ra một mô tả đáng tin không; Tác giả tài liệu có thực sự hiện diện ở đó, có ở trạng thái chú tâm tới sự kiện không; Việc ghi chép được thực hiện ngay khi diễn ra sự kiện, hay được ghi chép rất lâu sau đó - khi trí nhớ của người viết đã bị bào mòn bởi tuổi tác và những trải nghiệm đáng nhớ trong cuộc đời; hoặc khả năng nhận thức của người viết khi sự kiện xảy ra…? Với những ghi chép của người không tận mắt chứng kiến, việc họ dựa trên những nguồn nào để biên soạn hoặc có am hiểu về lĩnh vực đó hay không là những câu hỏi có ý nghĩa.
Trên hết, định kiến và động cơ của tác giả thường được cho là các yếu tố tác động nhiều nhất đến độ đáng tin cậy của một nguồn. Theo nghĩa nào đó, những nguồn mang tính chủ đích cao, chẳng hạn những tài liệu viết cho hậu thế đặc biệt đáng ngờ vì chúng có động cơ để bị bóp méo sự thật. Định kiến có thể nằm ở bất kỳ dạng nguồn nào, một cách ngấm ngầm hoặc rõ ràng. Những nguồn tưởng chừng mang tính ngẫu nhiên nhất như nhật ký vẫn có thể là để bảo vệ lòng tự trọng và bao biện cho động cơ của người viết. Một bản tường thuật trực tiếp lại điều được nghe, nhìn, hoặc nói có thể vô thức hoặc chủ ý bộc lộ định kiến ngầm của tác giả với mong muốn làm hài lòng hay lôi kéo người nghe. Với người ngoài cuộc, “thoạt nhìn có vẻ khách quan hơn trong việc ghi lại sự kiện, song “những giả định và các khuôn mẫu mang giới hạn văn hóa được chia sẻ bởi hầu như tất cả các trí thức lúc bấy giờ đòi hỏi sự đánh giá đặc biệt cẩn trọng. Đối với nhà sử học nghiên cứu các xã hội tiền chữ viết như châu Phi nhiệt đới thế kỷ XIX thì những mô tả đương thời của các nhà du thám châu Âu là một nguồn rất quan trọng, song hầu như tất cả chúng đều được tô màu bởi chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và xu hướng giật gân… Các tiểu thuyết gia, nhà soạn kịch và nhà thơ cũng có nhiều định kiến như bất kỳ ai khác, và điều này cần phải tính đến khi trích dẫn tác phẩm của họ làm bằng chứng lịch sử”[35]. Vì vậy, khó có thể nói tài liệu của người trong cuộc đáng tin hơn người ngoài cuộc; văn chương đáng tin cậy hơn; nguồn tận mắt chứng kiến đáng tin cậy hơn... Và xác định bản chất của tài liệu và cách nó đến thời đại chúng ta là đã bắt đầu xác định giá trị của nó[36].
Phát hiện ra những định kiến của người viết, tuy vậy, không phải để loại bỏ mà là để sử dụng chúng phục vụ nghiên cứu. Chắc chắn, bản thân sự thiên vị mang ý nghĩa về mặt lịch sử[37]. Do đó, việc đánh giá độ tin cậy của nguồn sử liệu không giống với việc kiểm tra chéo bằng chứng trong một phiên tòa. Cả hai đều kiểm tra độ tin cậy của lời chứng, song với phiên tòa chỉ có một sự thật còn với các nguồn sử liệu thì tồn tại nhiều sự thật nằm dưới một văn bản. Một bản địa bạ với những thông tin ruộng đất sai lệch lại hé mở sự thật về tình trạng ẩn lậu ruộng đất ở làng Việt trước kia khi lần tìm lai lịch của văn bản: quá trình hình thành, động cơ… Như vậy, có thể nói rằng dưới góc độ sử liệu học không có khái niệm sử liệu giả. Giả hay thật, đáng tin cậy hay không lại tùy thuộc từng góc nhìn, từng vấn đề nghiên cứu.
Dù xác định độ tin cậy của nguồn sử liệu không hề đơn giản, người ta vẫn có thể áp dụng một số quy tắc tổng quát cho phép xác định độ tin cậy của tài liệu: tài liệu ghi chép càng gần với thời điểm biến cố mà nó tường thuật xẩy ra thì càng chính xác; tác giả tài liệu càng chân thành trong ý định duy nhất là ghi chép sự kiện thì tài liệu càng đáng tin cậy; tài liệu càng riêng tư bao nhiêu thì nội dung của nó càng ít bị thêu dệt hoặc che giấu hơn; tác giả càng có am tường về vấn đề tường thuật thì tài liệu đó càng đáng tin cậy hơn[38].
3. Một số điểm đáng lưu ý
Nguồn chữ viết trên thực tế lại bao hàm vô số tiểu loại. Không kể đến sự đa dạng về mặt chất liệu, chỉ tính riêng văn bản trên giấy cũng có thể phân chia thành nguồn sơ cấp – thứ cấp; ấn bản và phi ấn bản; nguồn được sản sinh ra bởi chính quyền – nguồn được sản sinh bởi các tổ chức, các hội và các cá nhân; hoặc hương ước, thần tích, sắc phong, chính sử, địa chí, địa bạ, hồi ký, tiểu thuyết, thơ... tùy cách tiếp cận. Do đó, việc đánh giá sử liệu viết ở trên vẫn chỉ mang tính nguyên tắc chung. Đặc trưng riêng của mỗi loại nguồn đòi hỏi phải có cách thức xử lý khác biệt. Ở từng trường hợp cụ thể, nhà nghiên cứu cần có sự vận dụng linh họat mới có thể đạt được hiệu quả cao nhất.
Cũng cần lưu ý đến tính tương đối của bản thân khái niệm nguồn chữ viết. Điều này trước hết liên quan đến tính ước lệ rất dễ nhận thấy trong cách phân loại nguồn. Chữ viết trên đá, chữ viết trên đồng (hay tài liệu minh văn) cùng lúc có thể được xem là sử liệu viết và sử liệu vật thực. Hơn nữa, xét cho cùng tất cả các dạng nguồn khác đều có thể chuyển thành nguồn thành văn nhờ quá trình ghi chép lại, hoặc mô tả lại [39], vì thế quá trình đánh giá sử liệu đòi hỏi nhà sử học cẩn trọng để có thể áp dụng những phương pháp phê phán cần thiết. Rõ ràng là khi sử dụng các tập sách như Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh – vốn dựa trên những câu chuyện dân gian lưu truyền từ trước hay những văn bản chép truyền thuyết Thánh Gióng, Sơn Tinh - Thủy Tinh hay Mỵ Châu - Trọng Thủy,… nhà sử học không thể chỉ coi chúng là nguồn chữ viết, mà còn phải áp dụng những phương pháp đánh giá truyền thống truyền miệng. Bản gỡ băng ghi âm của một cuộc phỏng vấn theo phương pháp lịch sử truyền miệng sẽ không hẳn là nguồn chữ viết, mà còn là nguồn lịch sử truyền miệng vốn có những phương pháp xử lý sử liệu học chuyên biệt.
Thứ nữa là tính hồi tiếp giữa các nguồn sử liệu – hay tính không hoàn toàn độc lập của các nguồn. Đây là khái niệm được D. Henige - người đã dành sự quan tâm mạnh mẽ nhất tới sự cung cấp của tài liệu viết trong các truyền thống truyền miệng – đưa ra để chỉ quá trình vay mượn giữa các nguồn tài liệu[40]. Jan Vansina khi nghiên cứu các truyền thống truyền miệng cũng lưu ý rằng nhà sử học nên ý thức về những sự lan truyền hòa trộn có thể có và những sự vay mượn giữa các nguồn với nhau[41]. Như vậy, nguồn chữ viết có thể bao hàm trong nó các yếu tố vật thực, truyền miệng,… cũng như ngược lại. Việc xử lý sử liệu học đối với tài liệu khi đó theo phương pháp phê phán sử liệu viết, tài liệu ghi âm, hay tài liệu miệng cũng không phải là câu hỏi dễ gì giải đáp thỏa đáng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hà Văn Tấn, Một số vấn đề lý luận sử học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2007.
2. J. Topolski, Phương pháp luận sử học, Tập II, Nxb. Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội, 1968.
3. Jan Vansina, Oral Tradition as History, First Pubished, James Currey (London) and Heinemann Kenya (Nairobi) Press, 1985.
4. John Tosh, The Pursuit of History: Aims, Methods and new Directions in the Study of Modern History, Revised third edition, 2002.
5. Martha Howell & Walter Frevenier, From Reliable Sources: An Introduction to Historical Methods, 2002, Bản dịch của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
6. Nguyễn Thế Anh, Nhập môn Phương pháp Sử học, Sài Gòn, 1974.
7. Phạm Xuân Hằng, Vấn đề xử lý sử liệu học đối với tài liệu chữ viết, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Số 1, 1996.
[1] Hai trong số những cách phân chia thông dụng nhất là: (1) nguồn thành văn và không thành văn; (2) nguồn vật thực, nguồn chữ viết và nguồn truyền miệng. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, một số nguồn mới được sản sinh và nhìn chung được đưa vào hệ thống phân loại cũ bằng hai cách: gia nhập vào các loại hình có sẵn hoặc kéo dài danh sách các loại nguồn.
[2] Martha Howell & Walter Frevenier, From Reliable Sources: An Introduction to Historical Methods, 2002, Bản dịch của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 46.
[3] Nguyễn Thế Anh, Nhập môn Phương pháp Sử học, Sài Gòn, 1974, tr. 49.
[4] Theo Topolski, việc lưỡng phân nguồn thành nguồn thành văn và không thành văn “mà chúng tôi gọi là khoa học về nguồn lưu ý đến tầm quan trọng lớn lao (đối với các nhà sử học theo nghĩa chính xác nhất) của các nguồn thành văn. Tiêu chuẩn phân loại là sự tồn tại của bản chữ viết. Không cần phải nhấn mạnh rằng, phần lớn các lý giải của chúng ta trước đây về cái gọi là những khoa học hỗ trợ cho sử học đều liên quan với việc nghiên cứu văn tự (cổ văn học, tân văn học)” (Xem J. Topolski, Phương pháp luận sử học, Tập II, Nxb. Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội, 1968, tr. 89.
[5] P. Irwin, Người Liptako lên tiếng, tr. 164. Dẫn theo Jan Vansina, Oral Tradition as History, First Pubished, James Currey (London) and Heinemann Kenya (Nairobi) Press, 1985, tr. 199.
[6] D. E. L. Haynes, An Archeological and Historical Guide, tr. 143. Dẫn theo Jan Vansina, Oral Tradition as History, First Pubished, James Currey (London) and Heinemann Kenya (Nairobi) Press, 1985, tr. 194.
[7] Người sao chép [copyist] có thể thêm vào hoặc loại bỏ khỏi thông điệp gốc một sự diễn giải khác, nhưng thậm chí ở đó tổng số các sự diễn giải kết thúc ở thời điểm viết. Xem John Tosh, The Pursuit of History: Aims, Methods and new Directions in the Study of Modern History, revised third edition, 2002, tr. 195.
[8] Jan Vansina, Oral Tradition as History, First Pubished, James Currey (London) and Heinemann Kenya (Nairobi) Press, 1985, tr. 193-194.
[9] Jan Vansina, Oral Tradition as History, First Pubished, James Currey (London) and Heinemann Kenya (Nairobi) Press, 1985, tr. 194.
[10] Martha Howell & Walter Frevenier, From Reliable Sources: An Introduction to Historical Methods, 2002, Bản dịch của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 24.
[11] Marc Bloch, The Historian’s Craft, Manchester University Press, 1954, tr. 86.
[12] Hà Văn Tấn, Về mối liên hệ giữa văn bản học và sử liệu học, in trong Hà Văn Tấn, Một số vấn đề về lý luận sử học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2007, tr. 209.
[13] John Tosh, The Pursuit of History: Aims, Methods and new Directions in the Study of Modern History, revised third edition, 2002, tr. 86.
[14] J. Topolski, Phương pháp luận sử học, Tập II, Nxb. Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội, 1968, tr. 124-125.
[15] Phạm Xuân Hằng, Vấn đề xử lý sử liệu học đối với tài liệu chữ viết, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 1, 1996. Mặc dù đề xuất đến khái niệm phê phán phân tích và phê phán tổng hợp thay cho phê phán bên ngoài và phê phán bên trong mang tính quy ước, quan niệm của ông về mục đích của khâu đoạn thứ nhất này không hề khác biệt với các nhà phương pháp luận khác: “xét đến cùng, mục đích của việc phê phán phân tích là nhằm trả sử liệu về với chính nó”.
[16] J. Topolski, Phương pháp luận sử học, Tập II, Nxb. Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội, 1968, tr. 127.
[17] Hà Văn Tấn, Một số vấn đề về sử liệu học, in trong Hà Văn Tấn, Một số vấn đề lý luận sử học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2007, tr. 153.
[18] Hà Văn Tấn, Một số vấn đề về sử liệu học, in trong Hà Văn Tấn, Một số vấn đề lý luận sử học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2007, tr. 153.
[19] John Tosh, The Pursuit of History: Aims, Methods and new Directions in the Study of Modern History, revised third edition, 2002, tr. 89.
[20] Martha Howell & Walter Frevenier, From Reliable Sources: An Introduction to Historical Methods, 2002, Bản dịch của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 46.
[21] Trước khi phát minh ra in ấn vào thế kỷ 15, cách thức duy nhất để nhân rộng và phổ biến tài liệu viết là chép tay. Sai lầm vô ý có thể diễn ra trong quá trình này bởi việc đọc nhầm, nghe nhầm, viết nhầm, hiểu nhầm ý nghĩa. Các phương tiện kỹ thuật hay công nghệ hiện đại như máy photocopy, máy fax, băng từ, quá trình số hóa của thời đại chúng ta hôm nay cũng không giúp tránh khỏi những sai lầm vô thức trong quá trình sao chép, do trên thực tế các quá trình đó “thường không hoàn hảo bởi vì những thất bại kỹ thuật không định liệu được”. Tương tự, sai lầm cố ý được tìm thấy cả trong bản chép tay lẫn bản in với những sự sửa lỗi có chủ định đối với một văn bản gốc hay những nỗ lực có ý thức để thay đổi ý nghĩa bằng việc cắt gọt hay thêm thắt vào văn bản gốc. GS. Hà Văn Tất đưa ra thêm một loại sai lầm trung gian – sai lầm do hiểu lại. Xem thêm Hà Văn Tấn, Một số vấn đề về sử liệu học, in trong Hà Văn Tấn, Một số vấn đề lý luận sử học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2007, tr. 162.
[22] Hà Văn Tấn cho rằng thuyết này qua áp dụng nhiều khi tỏ ra máy móc, hiệu quả không cao. Xem Hà Văn Tấn,Một số vấn đề về sử liệu học, in trong Hà Văn Tấn, Một số vấn đề lý luận sử học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2007, tr. 161.
[23] John Tosh, The Pursuit of History: Aims, Methods and new Directions in the Study of Modern History, revised third edition, 2002, tr. 90.
[24] Martha Howell & Walter Frevenier, From Reliable Sources: An Introduction to Historical Methods, 2002, Bản dịch của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 48.
[25] Vấn đề thật/giả của một nguồn sử liệu, tuy vậy, lại chỉ mang tính tương đối: tài liệu giả lại là thật khi trở thành sử liệu để phục vụ một đề tài cụ thể.
[26] Hà Văn Tấn, Một số vấn đề về sử liệu học, in trong Hà Văn Tấn, Một số vấn đề lý luận sử học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2007, tr. 157.
[27] John Tosh, The Pursuit of History: Aims, Methods and new Directions in the Study of Modern History, revised third edition, 2002, tr. 89.
[28] J. Topolski, Phương pháp luận sử học, Tập II, Nxb. Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội, 1968, tr. 121-122.
[29] Phạm Xuân Hằng, Vấn đề xử lý sử liệu học đối với tài liệu chữ viết, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 1, 1996, tr. 57-63.
[30] Nguyễn Thế Anh, Nhập môn Phương pháp Sử học, Sài Gòn, 1974, tr. 54.
[31] John Tosh, The Pursuit of History: Aims, Methods and new Directions in the Study of Modern History, revised third edition, 2002, tr. 90-91.
[32] Nguyễn Thế Anh, Nhập môn Phương pháp Sử học, Sài Gòn, 1974, tr. 90.
[33] Nguyễn Thế Anh, Nhập môn Phương pháp Sử học, Sài Gòn, 1974, tr. 90.
[34] John Tosh, The Pursuit of History: Aims, Methods and new Directions in the Study of Modern History, revised third edition, 2002, tr. 91.
[35] John Tosh, The Pursuit of History: Aims, Methods and new Directions in the Study of Modern History, revised third edition, 2002, tr. 93.
[36] Nguyễn Thế Anh, Nhập môn Phương pháp Sử học, Sài Gòn, 1974, tr. 89.
[37] John Tosh, The Pursuit of History: Aims, Methods and new Directions in the Study of Modern History, revised third edition, 2002, tr. 94.
[38] Nguyễn Thế Anh, Nhập môn Phương pháp Sử học, Sài Gòn, 1974, tr. 54-55.
[39] J. Levewel trong Historyka (1815) mặc dù chia các nguồn lịch sử thành: các truyền thống (những thông tin truyền miệng); những nguồn không được viết ra (những di tích câm) và những nguồn thành văn, song cũng lưu ý rằng hai nhóm đều có thể chuyển thành nguồn thành văn (viết báo cáo, ghi lại các nguồn vật chất). Dẫn theo J. Topolski,Phương pháp luận sử học, Tập II, Nxb. Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội, 1968, tr. 84.
[40] D. Henige, Oral Historiography, tr. 80-87. Dẫn theo Jan Vansina, Oral Tradition as History, First Pubished, James Currey (London) and Heinemann Kenya (Nairobi) Press, 1985, tr. 156.
[41] Jan Vansina, Oral Tradition as History, First Pubished, James Currey (London) and Heinemann Kenya (Nairobi) Press, 1985, tr. 156-157.
Nguồn
Bài đăng mới hơn Bài đăng cũ hơn Trang chủ
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)